Ông lão 30 năm làm nghề "đối mặt với tử khí"
Chủ nhật, 17/11/2013 08:07

Đường đời mưu sinh của người đàn ông hành nghề khâm liệm tử thi ấy vốn đầy trắc trở.

Lão Chu đã 30 năm mưu sinh bằng nghề khâm liệm tử thi. Ảnh: T.G

Lão Chu đã 30 năm mưu sinh bằng nghề khâm liệm tử thi. Ảnh: T.G

30 năm ròng chấp nhận làm cái nghề ai cũng muốn tránh xa, những gì ông nhận lại chỉ là chút tiền ơn nghĩa từ gia chủ. Thế nhưng, chừng ấy chẳng đủ giúp lão cải thiện đời sống lay lắt trong căn nhà xiêu vẹo nơi đầu núi.

Từ chàng thanh niên xung phong đến kiếp phu vàng

"Lão là người "hoàn cảnh" nhất xứ này!". Đấy là điều đầu tiên tôi được người dân xóm 1, xã Quỳnh Mỹ, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An trả lời khi hỏi thăm đường đến nhà lão nông Lê Minh Chu. Gọi là lão nông cho "oách", chứ thực ra, lão chẳng có một tấc đất để trồng cấy gì. Ngay cả căn lều rách tươm nằm heo hút phía chân đồi, người dân cho biết cũng là nhờ chủ đất thương hại nhường cho một ít đất dựng tạm. Giữa hai bên đã giao kèo, sau khi lão Chu qua đời, thì phần đất ấy phải trả lại.

Căn lều nằm cuối lối đi nhỏ, muốn đến được nhà lão phải leo lên chân núi được "trải thảm" bùn nhão nhoẹt, đầy nước. Nhìn bộ dạng lão Chu với tấm thân xương xẩu nhăn nheo, đôi mắt hum húp, tôi không thể ngờ, ông từng có những tháng năm tuổi trẻ góp đá phá đường, san lấp hố bom cho từng đoàn xe từ Bắc vào Nam, góp phần đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Lập cập rót nước mời khách bằng cái ca nhựa duy nhất trong nhà, lão dường như mất vẻ tự nhiên bởi "quá lâu rồi chẳng ai đến viếng thăm". Hỏi tên, hỏi tuổi, lão lắc đầu không nhớ, nhưng tự áng chừng đã gần 75. Hỏi con cái, lão lắc đầu bảo, chúng đi tha phương mưu sinh hết rồi. Cứ thế, bằng cái giọng nhát gừng, lão kể về cuộc đời lão, về kiếp mưu sinh đầy tủi cực từ thời trai trẻ đến tận bây giờ.

Lão kể, năm lão vừa tròn 18 tuổi thì lên đường làm nhiệm vụ thanh niên xung phong san lấp hố bom, sửa chữa vá đường tại các huyện miền Tây Nghệ An. Rồi chuyển sang đơn vị thanh niên chuyên vận chuyển hàng hóa bằng xe đạp thồ hàng từ Hoàng Mai (Nghệ An) vào đến tận Quảng Bình trên con đường Trường Sơn huyền thoại. Nhiều đêm, lão phải đi liên tục theo đường rừng để tránh máy bay ném bom. Hàng hóa mà đoàn xe thồ của lão thời ấy chở là gạo thóc, đường, mì tôm, và có lúc cả đạn dược, thuốc men.

Đến năm 1972, khi lão vừa tạt về thăm nhà thì một trận bom B52 của giặc Mỹ bất ngờ dội xuống. "Tôi nhớ rất rõ, hôm đó là ngày 12/10/1972, cả bố mẹ và tôi thoát nạn, duy chỉ có đứa em trai tên là Lê Minh Hoàng chết cháy trong nhà. Buồn tủi, bố mẹ tôi sinh bệnh rồi cũng qua đời!", lão Chu rướm nước mắt. Sống đơn độc cho đến ngày đất nước giải phóng, lão cũng lấy vợ. Đám cưới nghèo chẳng có nhà trai, chỉ mình lão "trên răng dưới dép" lững thững đi hỏi vợ…

Hai vợ chồng trẻ về với nhau chẳng có của hồi môn hay tấc đất cắm dùi. Bí thế, lão nghe cánh xe thồ hồi ấy rủ ra Na Rì (Bắc Cạn) đào đãi vàng thuê cho một chủ "bưởng" người Hà Nam với ngày công chỉ là ba bữa gạo cộng rau muống, mỗi tháng thêm chút tiền gửi về cho vợ nuôi con. Cuộc sống tại bãi vàng chẳng nơi đâu cơ cực bằng. Ăn ngày hai bữa rồi cắm đầu trong hầm trong hố, ngâm mình dưới bùn lầy, nước độc cả ngày để tìm vàng. Chủ "bưởng" lại là một tay độc ác. Có lần, hắn phát hiện người làm công giấu vàng đã cho đệ tử đánh đến đánh đập tàn tệ. Nhìn cảnh tượng hãi hùng đó, lão cũng luôn luôn lo sợ điều khủng khiếp sẽ có lúc xảy đến với mình.

Nhiều đêm, lão cũng đã có ý định chạy trốn, nhưng chưa kịp thực hiện thì đã thấy chủ "bưởng" dẫn về một người bỏ trốn bị bắt lại nên lão đành im ắng chờ thời cơ. Sau này, để khống chế các phu vàng, chủ "bưởng" còn bắt các phu hút thuốc phiện để "khỏe mà làm việc".

Lão kể: "Bản thân tui cũng trở thành nạn nhân của ma túy sau nhiều lần chúng "phát" cho để sử dụng. Cứ cuối năm, bọn chủ "bưởng" cho lĩnh lương, sau khi trừ chi phí, anh em phu phen chẳng còn lại mấy đồng. Thấy không có tiền gửi cho vợ con mà tiền mua thuốc hút cũng dần dần không có nốt, vào một đêm mưa gió, lợi dụng chủ "bưởng" ngủ say, tui rón rén lẻn ra khỏi trại và lao vào rừng chạy thục mạng gần 5 tiếng đồng hồ ra tới Quốc lộ. Thoát khỏi kiếp phu vàng trong cảnh "thân tàn ma dại", tui trở về mà cả vợ con đều không dám tin. Vậy mà thấm thoát, ngày ấy đã cách đây ba mươi năm có lẻ".

Căn lều của lão Chu nơi đầu núi. Ảnh: T.G

Kiếm tiền bằng nghề khâm liệm tử thi

Thoát khiếp "nô lệ" tại "bưởng" vàng, lão trở về. Không nghề nghiệp, không tiền bạc, cái duyên tình cờ đẩy đưa lão đến nghề khâm liệm tử thi để mưu sinh. Ngồi tâm sự, lão kể: "Hồi trốn từ bãi vàng về lại làng, không có tiền nuôi con cái, tui đành phải cho các con nghỉ học đi làm thuê và "tự" kiếm vợ, kiếm chồng". Đến nay, tất cả bốn người con, hai trai, hai gái đều đã có gia đình và phải chật vật mưu sinh nơi xứ người. Con đi làm thuê, thi thoảng mới về, ở nhà chỉ có hai vợ chồng già nên lão phải trần lưng kiếm tiền để tự trang trải cho cuộc sống. Ngày ngày, vợ lão kiếm được ít tiền lẻ nhờ việc mò cua, ốc đem bán nhưng cũng chỉ đủ tiền mua gạo. Còn lão, công việc thường xuyên mang lại thu nhập là "đánh bạn với tử thi".

Nhớ lại cơ duyên đưa mình vào nghề, lão kể, dạo ấy trong làng có người bị bệnh nằm liệt giường đến hơn một năm mới qua đời. Vì nằm bất động một chỗ quá lâu, thân thể người này bị hoại tử, giòi bọ lúc nhúc, ai nhìn cũng phải kinh sợ nên con cái đều không dám tắm rửa, thay quần áo. Cực chẳng đã, trước khi làm lễ nhập quan, gia đình bàn bạc thuê người ngoài đến giúp. Thấy gia đình xuôi ngược gần hết buổi sáng chẳng nhờ vả được ai, trong lúc bản thân cũng thất nghiệp, đang cần tiền mua thuốc cho vợ, lão đánh liều đến gõ cửa xin nhận việc. "Lúc đầu cũng ghê tay lắm. Thi thể người chết bị hoại tử, bốc mùi không thể chịu nổi. Nhưng nghĩ đến tình làng nghĩa xóm, nghĩ đến khoản tiền công mang về mua thuốc, tôi lại xắn tay lên, nhắm mắt rửa ráy cho xong", lão tâm sự.

Sau lần ấy, chẳng biết tự bao giờ, cái nghề khâm liệm, tắm rửa cho người chết "vận" luôn vào người lão. Làng trên xóm dưới, trong xã ngoài huyện, gia đình nào có đám cũng nhờ lão đến "giúp một tay". Lâu dần, lão tự "đa dạng hóa" cái nghề "độc" của mình bằng cách nhận vận chuyển cả đồ đạc sinh hoạt của người chết, đánh trống, thổi kèn… Nói chung, cứ dịch vụ gì gia chủ cần, lão đều sẵn sàng đáp ứng. Lão chia sẻ: "Nhiều lúc chạm tay vào người chết cũng lạnh hết người, nhưng như cái duyên nghiệp rồi, không làm thì không có tiền, mà làm thì ám ảnh lắm! Nhiều đêm nằm ngủ, cứ nghĩ đến cảnh ban ngày tắm rửa, chải đầu, thay quần áo cho tử thi, tui lại toát mồ hôi hột vì sợ!"

Ngẫm lại mấy chục năm làm nghề, ông đúc kết thêm: "Lão cũng chỉ mong kiếm được chút tiền từ sự cảm thông của gia chủ, chứ chẳng mong giàu sang, cũng chẳng mong được tiếng tăm gì. Ai lại mong làm giàu, mong lấy tiếng trong nỗi đau của người khác bao giờ. Như thế nhẫn tâm lắm. Mỗi lần làm công việc ấy xong, chủ nhà đưa bao nhiêu thì nhận, chưa một lần lão đòi hỏi hay chê tiền công ít nhiều. Có lần, lão khâm liệm cho một gia đình nghèo khó đến nỗi chẳng có nổi cỗ quan tài, đã chẳng lấy tiền thì chớ, lão còn biếu tang quyến thêm chút tiền để lo tang ma".

Chia tay ông rồi ngước lên nhìn cái "chòi" chơ vơ, tôi không khỏi cám cảnh. Tự hỏi, ở tuổi gần đất xa trời, liệu lão còn bao năm khỏe mạnh để theo đuổi cái nghề mưu sinh chẳng mấy ai dám làm này (?). Hỏi rồi lại chợt nhớ tâm sự của lão, tôi chợt thấy ám ảnh: "Không biết đến lúc tôi nhắm mắt xuôi tay, ai sẽ đến tắm rửa, khâm liệm cho mình?". Nhìn dáng lão còm cõi khuất dần sau núi mà tôi thấy sống mũi cay cay. Dẫu sao cũng một kiếp người mưu sinh...

Giadinh.net.vn

Clip đang được xem nhiều nhất: Mẹ bị tố dàn dựng chụp ảnh con ngoài cổng trường: “Tôi sai nhưng mọi người cần hiểu vấn đề”

Tag: Nghệ An , Người cao tuổi , Nghề khâm liệm tử thi , Nghề nghiệp , Mưu sinh , Đời sống