Mãi đến năm 62 tuổi, người vợ tự nhiên có bầu, kì lạ hơn là bà lại sinh ra hai quả trứng. Sau một thời gian ấp ủ, hai quả trứng nở ra hai con rắn… và câu chuyện bắt đầu từ việc hình thành hai ngôi đền thiêng tại huyện Yên Thành.
Truyền thuyết
Ở huyện Yên Thành từ trước tới nay, người đời vẫn truyền miệng cho nhau nghe về chuyện hai anh em rắn xuất hiện từ xa xưa. Truyền thuyết này có liên quan đến sự ra đời của hai ngôi đền: Đền Đức Hoàng ở xã Phúc Thành và đền Canh ở xã Đức Thành nổi tiếng linh thiêng nhất huyện lúa Yên Thành.
Chúng tôi tìm gặp ông Hà Huy Quang, Trưởng ban quản lý Đền Canh. Ông Quang nhớ lại chuyện về hai anh em nhà rắn: "Chuyện có từ xa xưa lắm, tôi cũng chỉ nghe ông cụ thân sinh tôi và những cụ cao niên vốn nổi tiếng thông nho ở trong làng kể lại. Câu chuyện được truyền tụng trong dân gian cho tới ngày nay", ông Quang cho biết.
Xưa, làng Xuân Hòa là một làng có số dân đông, có cánh đồng rộng kéo dài từ cửa chợ Sàng vào đồng Bùng, đền Cộ, khe Ganh. Làng đó có hai vợ chồng là cụ Hoàng Phúc Hữu và Vũ Thị Quyên lấy nhau đã lâu nhưng không có con. Mãi đến năm người vợ bước sang tuổi 62, vào một ngày hè nóng nực, bà ra khe Ganh tắm cho mát, sau lần đó bà linh cảm trong người có sự thay đổi khác thường. Ngày qua tháng lại, hiện tượng thai nghén ngày càng biểu hiện rõ rệt, bụng càng ngày càng to. Hai ông bà mừng vui khôn xiết và mong đợi ngày mãn nguyệt tới tuần, đón con ra đời.
Đến ngày trở dạ, bà không sinh ra người mà lại sinh ra hai quả trứng. Mặc dù có phần lo lắng, sợ hãi nhưng vợ chồng bà vẫn quyết định giữ hai quả trứng lại để ấp ủ, bởi dù sao thì cũng là máu mủ của mình nên họ không nỡ vứt đi. Lại đúng 9 tháng 10 ngày sau, hai quả trứng nở ra hai con rắn, rắn anh màu vàng (đặt tên Hoàng Tiến Sơn), rắn em màu đen (đặt tên Hoàng Tiến Kỳ). Lúc đầu thấy vậy, hai vợ chồng sợ hãi, không dám động vào, thế nhưng hai con rắn kia lại không có biểu hiện làm hại người khác, ngược lại chúng còn quấn quýt bên hai vợ chồng già này. Hai ông bà đi đâu, hai con rắn đều theo đó.
Một lần nọ, hai vợ chồng ra đồng cùng hai đứa con của mình, trong lúc xới đất không may người cha xắn đứt đuôi rắn anh. Bị đau quá hai anh em rắn kéo nhau về nhà. Khi về đến nhà, hai con rắn đứng hai bên cửa ra vào, khi người cha vừa về đến, hai con rắn đứng dựng lên, nghển cổ cao đầu bổ ra định xông vào cắn ông. Linh tính biết trước chuyện này, ông đã quỳ sụp xuống chắp hai tay lại và khẩn vái van xin. Sau đó, hai anh em rắn cùng nhau bỏ đi theo hai hướng. Rắn anh (rắn cụt) đi theo Bàu Canh. Rắn em đi đến Bàu Ác thuộc làng Diệu Ốc, xã Phúc Thành ngày nay.
Rắn cụt đi theo hướng Bàu Canh đến một vùng đất cao ráo, phong cảnh hữu tình trên bờ Bàu Canh để lại 3 giọt máu. Hai vợ chồng và dân làng đã đi tìm khi đến đây thấy vậy thì lập đền thờ và nhân dân trong vùng gọi là Đền Canh (Đền Hạ). Rồi ngài tiếp tục đi lên ngàn Thượng (thuộc vùng đất Quỳnh Tam, Quỳnh Lưu ngày nay) thì kiệt sức. Mệt quá không đi được nữa và đành nằm lại và tạ thế tại đây. Nơi đây về sau nổi lên một ngôi mộ to đẹp, người dân ở đây đã lập nên Đền Thượng như ngày nay. Hàng năm, đến ngày 20-2 âm lịch được cho là ngày giỗ của Ngài và tổ chức rước ngài từ Đền Thượng về Đền Canh để làm lễ.
Riêng người em, khi chia tay anh đã đi về hướng Bàu Ác, làng Diệu Ốc, xã Đại Trung (nay là xã Phúc Thành) và tạ thế tại đây. Nhân dân trong vùng đã xây dựng ngôi đền thờ ngài và gọi là Đền Đức Hoàng. Sau này, người ta đã tôn tạo hai ngôi đền và hàng năm tế lễ, hương khói để xin các ngài phù hộ mùa màng tốt tươi. Ngày nay người ta quen gọi là "rắn cụt Bàu Canh, rắn lành Bàu Ác" để chỉ về câu chuyện ly kỳ về hai anh em "rắn thần" này.
Nói về hai vợ chồng đi tìm con, hai ông bà đã cơm đùm cơm gói vượt đại ngàn đi tìm. Hai vợ chồng đi hai hướng, nhưng do tuổi cao sức yếu, hai ông bà đã tạ thế trong rừng sâu. Hiện nay, người ta gọi khu rừng nơi ông tạ thế là "Ngàn nhà ông" còn khu rừng bà vợ tạ thế là "Ngàn nhà bà".
Và sự thật về hai ngôi đền thiêng
Tại Đền Đức Hoàng, theo sử sách ghi lại thì người ta không lấy sự tích đó để nói về sự ra đời của Đền Đức Hoàng. Theo hồ sơ lưu lại ở Ban văn hóa xã Phúc Thành cũng như ở Bảo tàng văn hóa huyện Yên Thành thì Đền Đức Hoàng thờ tướng Hoàng Tá Thốn tự Hoàng Minh, hiệu Tô Đại Liêu, quê làng Vạn Phần (nay là xã Diễn Vạn, huyện Diễn Châu), người có công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông ở thế kỷ XIII.
Văn bia và phả tộc họ Hoàng, ở Vạn Tràng cũng ghi chép: Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn sinh năm Giáp Dần (1254) vào đời vua Trần Thái Tông, ở làng Vạn Phần, phủ Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Thời niên thiếu, ông có sức khỏe phi thường, giỏi võ và đặc biệt là có tài bơi lội. Khi quân Nguyên Mông xâm lược nước ta, ông được sung vào đội thủy binh thiện chiến của nhà Trần, được Hưng Đạo Đại Vương chiêu làm nội thư gia, giúp việc binh thư dưới trướng. Ông đã có nhiều công lao trong đánh giặc ngoại xâm, lừng lẫy nhất là cuộc chiến trước sông Bạch Đằng năm Mậu Tý 1288. Ông được cấp ấn phủ, thống lĩnh hàng vạn quân cùng tàu thuyền, dùng chiến thuật đục thuyền địch nên quân Nguyên bị đại bại, tướng giặc Thoát Hoan phải chạy về nước, ô Mã Nhi bị bắt sống. Sau chiến công lẫy lừng đó, vua Trần Nhân Tông sắc phong ngài là "Sát hải đại vương". Sau khi quân Nguyên Mông rút về nước, ông tiếp tục thống lĩnh các đạo thủy quân coi giữ 12 cửa biển. Trong một lần đi tuần ven biển, ngài bị bệnh và qua đời vào đúng ngày mùng một Tết Nguyên đán tại Cửa Trào, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa ngày nay, triều đình đã đưa thi hài của ngài về an táng tại quê nhà. Sử liệu còn ghi chép lại, ông không những là người có tài thao lược trong đánh giặc mà còn có công lớn trong việc chiêu binh, mở đất, lập làng nên được nhân dân nhiều địa phương tôn ông làm Thành Hoàng. Tại Đền Đức Hoàng ngoài thờ Thành Hoàng còn thờ thần rắn, Bạch Y công chúa và Mẫu Liễu Hạnh. Đền Đức Hoàng có quy mô kiến trúc không lớn nhưng lại mang vẻ cổ kính, linh thiêng. Nơi đây trở thành nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh, đậm đà bản sắc văn hóa của người dân địa phương. Lễ hội Đền Đức Hoàng được tổ chức hàng năm vào ngày 30-1 và 1-2 âm lịch thu hút đông đảo người dân địa phương và du khách tới thăm viếng. Với những giá trị lịch sử văn hóa, năm 2000, Đền Đức Hoàng được Nhà nước công nhận là Công trình di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.
Tại Đền Canh thuộc xã Đức Thành, huyện Yên Thành ngày nay cũng có rất ít tài liệu ghi chép lại về sự hình thành của ngôi đền này. Người dân ở đây cũng không biết đền được xây dựng vào thế kỷ nào. Ông Võ Đình Chín, Phó Chủ tịch UBND xã Đức Thành cho biết, tư liệu về Đền Canh đến nay hầu như không còn nữa. Có chăng đó là những hàng chữ Nho cổ, một số chữ đã mờ được khắc trên hai cổng nanh và cửa tam quan. Tuy nhiên, rất tiếc là người dân trong vùng không còn ai có thể đọc được loại chữ đó. Tại Đền Canh chưa thấy một tư liệu nào ghi chép thờ "Nhân thần" mà chính điện của Đền Canh là thờ "thần rắn". Hàng năm UBND xã vẫn cử người trông coi đền và hương khói vào ngày mồng 1, rằm và tổ chức lễ hội vào ngày 20-2 âm lịch hàng năm. Hiện nay, một số hạng mục của đền đã xuống cấp trầm trọng nên chúng tôi đang kêu gọi người dân địa phương, các nhà hảo tâm để phục dựng lại di tích mà ông cha để lại.