Gã giang hồ hoàn lương và tình yêu khiến “đất nở hoa”

Nhắc đến Ngọc - Mưa, cả làng Bát Tràng không ai là không biết đến. Thế nhưng không nhiều người biết, anh đã phải trải qua rất nhiều sóng gió trước khi trở thành người thành đạt như ngày hôm nay. Tất cả là nhờ tình yêu với người và với nghề ở làng gốm.

“Yêng hùng” dừng chân nơi đất gốm

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình gia giáo ở Quảng Ninh, ông nội vốn là nhà Nho, từ nhỏ anh đã được dạy Tam tự kinh, nghe giảng Kiều, bói Lục nhưng anh không theo nghiệp chữ nghĩa mà cuộc đời lại rẽ theo một hướng khác. Tuổi trẻ bồng bột, ngay sau khi tốt nghiệp trung học, thi đại học không đỗ, nghe lời dụ dỗ của bạn bè, anh tìm cách vượt biên sang Hồng Kông vì nghe nói bên đó dễ kiếm tiền.

Cuộc sống nơi đất khách đầy những cạm bẫy đã đưa anh vào con đường giang hồ tứ chiếng. Cho đến bây giờ nhớ lại, anh vẫn không khỏi giật mình. Quá khứ nơi đất khách với những cuộc đâm thuê chém mướn là điều anh vẫn muốn đào sâu chôn chặt, thậm chí với cả vợ anh - chị Mưa cũng chỉ biết qua loa. Tiền kiếm được không là bao, đói ăn, thiếu mặc lúc nào cũng nơm nớp lo sợ bị trả thù, bị bắt, bị bỏ tù, bị tống trả về nước. Cho đến khi biết tin cha mẹ ốm yếu, anh quyết định trở về.

Với hai bàn tay trắng, anh bắt đầu làm lại cuộc đời bằng việc vẽ thuê. Thời gian đó, anh tranh thủ ôn thi tiếp vào trường Mỹ thuật Yết Kiêu. Nhưng máu yêng hùng xưa thi thoảng vẫn trỗi dậy. Trong một cuộc thanh trùng giới giang hồ, bàn tay anh đã không còn nguyên vẹn. Khi đó anh mới hoàn toàn tỉnh ngộ chuyên tâm làm ăn cho dù giấc mộng hội họa cũng chấm dứt từ đó.

Ngồi kể chuyện xưa, anh cười chua chát: “Nếu không có cái nghề này, có lẽ giờ tôi vẫn còn đang dật dờ ở đâu đó. Mấy năm trước về làng, có người còn không nhận ra, họ tưởng tôi đã chết bờ chết bụi ở đâu rồi”.

Cuộc đời đẩy đưa, rồi cuối cùng cũng đậu anh ở lại với làng nghề Bát Tràng, cũng là lúc mở cuộc đời của anh bước sang một trang mới. Làng nghề nổi tiếng hàng trăm năm hóa ra cũng không đến nỗi khép kín như người ta lầm tưởng, anh vừa đi vẽ thuê vừa tranh thủ học hỏi kinh nghiệm từ những người thợ trong làng: Từ việc nhào đất, luyện phôi, pha men, giữ lửa... Vẽ đẹp nhất nhì làng trong đám thợ, lại thêm tính tình phóng khoáng, mau miệng mau cười nên đi đến nhà nào anh cũng được quý mến, truyền dạy. Được thể, anh hăm hở học và dần đúc rút nên kinh nghiệm cho mình. Cũng có những gia đình quý mến, muốn lưu giữ Ngọc lại làm con cái trong nhà rồi truyền cho cái tinh túy của nhà, anh chỉ cười lấy cớ chuyện trăm năm nên để cha mẹ ở quê nhà định liệu mà từ chối khéo.

Nhưng cái duyên với gốm của anh thực sự chỉ nở rộ khi có sự chung sức của một người phụ nữ là vợ anh: chị Mưa.

Tình yêu thăng hoa trên từng bức tranh gốm

Chị Mưa là con gái Quảng Ninh, kém chồng gần chục tuổi. Ngày anh rời quê ra đi chị hãy còn là cô bé con, mấy năm sau anh trở về thấy cô em hàng xóm đã trở thành một cô gái duyên dáng, nết na và hiền lành. Anh một mặt bén cô vì cái nết cái duyên, mặt khác trong lòng cũng mong muốn có một người vợ hiền đảm để có thể thay anh chăm sóc gia đình, để những khi anh “nóng” còn có người “lạnh” để bù trừ cho nhau thì trong nhà mới êm ấm được. Về phần chị, chị cảm vì cái “ngây ngô, không biết tán gái” của anh, mỗi lần đến nhà, sau mấy câu chào hỏi song thân, anh chỉ ngồi im như thóc mà không biết nói gì. Thấy kì kì, hay hay, cho dù lời tiếng về quá khứ giang hồ của anh cũng khiến chị có phần e sợ, nhưng càng tiếp xúc, càng thấy anh thật tính, mạnh mẽ, là người đủ tự tin để có thể trao gửi cuộc đời mình.

Lấy nhau xong, anh đưa chị lên Bát Tràng, trong túi anh lúc bấy giờ thậm chí không có đủ tiền để mua một con gà, làm một bữa cơm thết đãi bạn bè.

Vợ anh, trước giờ chỉ biết trường lớp, bếp núc, chợ búa, đến lúc đi làm thuê cho người ở làng nghề thì không khỏi ngỡ ngàng. Được chồng dạy cho những kĩ thuật căn bản, chị cũng xách bút đi vẽ thuê. Vốn không quen việc nên khi đi vẽ không được như ý gia chủ, thỉnh thoảng lời qua tiếng lại, đêm về chị tủi thân úp mặt vào vai chồng mà khóc.

Thương vợ, anh quyết định tách ra làm riêng “vì dù sao làm cho mình thì cũng thoải mái hơn”. Khó khăn thật sự những ngày ban đầu không sao kể hết. Ở giữa một làng nghề nức tiếng lâu năm, nhà nào cũng phải có bí kíp riêng của mình để giữ vững thương hiệu gia truyền. Hàng xóm có thể cùng nhau trà dư tửu hậu, tắt lửa tối đèn có nhau nhưng cái bí kíp thì không thể nào san sẻ, huống gì anh lại là người ngoài, là “dân ngụ cư”. Cứ tối đến hoặc đến thời điểm pha chế men trong tuần, nhà nào nhà nấy đóng chặt cửa không tiếp khách. Những kiến thức và kinh nghiệm thu lượm được từ trước lúc này trở thành không đủ, hai vợ chồng vừa phải tiếp tục làm thuê, vừa sản xuất những sản phẩm đơn giản, lại vừa phải mày mò tìm cho mình một lối đi riêng.

Cái lò nung be bé mà hai vợ chồng đã phải chạy vạy khắp nơi mới có đủ tiền dựng không phải lúc nào cũng thuận lợi. Nhiều lúc xuất lò, sản phẩm không như mong đợi, đổ vỡ, nứt, mẻ, màu sắc không như ý khiến có lần anh chán nản muốn buông xuôi. Mỗi lần ra lò hỏng là một lần thêm nợ, công anh đi làm thuê không bù lại được. Có những lúc bế tắc, trong nhà không có một đồng nào mà tiền để chạy lò thì vẫn phải tiếp tục rót, rồi cả tiền công thợ, hai vợ chồng chỉ biết nhìn nhau lo lắng rồi lại tiếp tục động viên nhau.

Giữa lúc ấy, cô con gái nhỏ ra đời, khó khăn lại tiếp tục dội lên vai hai vợ chồng. Hai miệng ăn đã khó, giờ lại thêm một miệng ăn, thời gian đi làm của hai vợ chồng cũng ít lại vì phải chăm sóc con. Anh không đi làm thuê nữa mà chỉ ở nhà vẽ tranh gốm cho mình, cũng không làm các sản phẩm khác vì không thể nào đọ được với những gia đình vốn đã có tiếng về các mặt hàng này trong làng. Quyết định này có vẻ liều lĩnh nhưng hóa ra lại đúng đắn và mở ra những thuận lợi cho anh. Anh quan sát thấy, để đúc được một bức tranh gốm hoàn toàn bằng phẳng và đẹp quả không dễ dàng. Những người thợ Bát Tràng đã dạy cho anh cách lên khuôn kính: cho phôi đất đã luyện lên một tấm kính có sẵn, rồi cán đều, để ráo rồi gỡ ra, đợi khô hẳn rồi mới vẽ, mới lên men. Nhưng đến lúc lên, men không được bóng, sáng như ý muốn. Hai vợ chồng bèn cùng nhau nghiên cứu, mày mò pha chế công thức mới, tính ra không biết bao nhiêu lần thất bại.

Nhưng trời không phụ lòng người, đến một ngày vô tình chính chị Mưa lại là người tìm ra cách pha chế đặc biệt để tạo nên một loại men nâu, da lươn mà đến khi nung lên, bề ngoài vẫn bóng sáng mà vẫn “rạn” nhẹ bên trong, sắc men vừa tươi sáng vừa có độ đằm. Anh Ngọc cười: “Hóa ra người tạo nên bí kíp gia truyền lại là vợ chứ không phải mình. Bây giờ thì cô ấy chuyên rồi, pha men đâu có cần phải cân đo đong đếm nữa, chỉ thiếu nước vừa ôm con vừa pha men thôi”. Nói là nói cho vui vậy, thực ra anh biết để lăn lộn với nghề còn nhiều khó khăn lắm, vợ chồng anh còn phải “thử lửa” nhiều chứ không phải chỉ một hai lần là xong.

Những ngày tháng khó khăn nhất của hai vợ chồng cũng dần qua, khách quen ngày càng nhiều, những người khách ái mộ tài hoa và sự niềm nở của gia đình anh cũng giới thiệu thêm những khách hàng mới, một đồn hai, hai đồn ba, cứ thế những bức tranh gốm của anh ngày càng đi xa.

Mỗi bức tranh gốm của anh giờ đây không chỉ có tranh mà còn có chữ. Anh chỉ cho chúng tôi lên giá sách của mình, trên đó có rất nhiều những cuốn sách chữ Nho, có cuốn sách đã hoen mục và cả những cuốn còn rất mới. Ngày ngày, anh vẫn phải dành đến nửa thời gian của mình để tiếp tục đọc và nghiên cứu, tìm ra những bài thơ hay, những câu đối chuẩn, thậm chí cả “tập làm thơ” để phú vào những bức tranh của mình.

Cuộc sống hai vợ chồng anh giờ đã đi vào ổn định, kinh tế cũng được xếp vào dạng khá giả trong làng. Cô con gái nhỏ giờ cũng đã lớn hơn, ngoài thời gian đi học ở trường, ở nhà có thời gian rỗi lại ngồi xem bố mẹ làm nghề. Anh chị bảo không có ý định cho con gái theo nghề nhưng cũng không cấm, bởi làm cái gì cũng phải có sự đam mê. Nhìn gia đình bé nhỏ của anh, chúng tôi không khỏi ganh tị. Chia tay gia đình anh Ngọc, rời khỏi Bát Tràng, bất chợt ai đó trong chúng tôi ngâm nga lên câu thơ cũ: “Em cầm bút vẽ lên tay/ Đất cao lanh bỗng nở đầy sắc hoa/ Cánh cò bay lả bay la/ Lũy tre đầu xóm, cây đa giữa đồng...” nghe mà thấy ấm lòng. Bởi những người thợ tài hoa đồng thời cũng là những con người biết yêu thương, biết cùng nhau vượt qua khốn khó vẫn đang hàng ngày làm nên giá trị của làng nghề.