Con trẻ đồng tính - cha mẹ cần biết những gì?

Lâu nay hai từ đồng tính không còn xa lạ trong giới trẻ. Hiện tượng đồng tính lứa tuổi vị thành niên ở ta hiện nay có vẻ như đang phát triển mạnh hơn.

Vậy sự thật của vấn đề này là gì?

Cho đến nay cả y học và xã hội chưa đưa ra lời giải cho nguyên nhân của hiện tượng đồng tính . Nhưng chuyện đồng tính “nở rộ” như hiện nay, nguyên nhân thì có rất nhiều, trong đó không loại trừ cả việc đồng tính “giả”, theo phong trào. Nhất là tuổi VTN tâm tính chưa ổn định, thích a dua, lạ đời, độc chiêu, thích nổi tiếng... Rồi có nhiều em lầm tưởng về giới tính của mình khi bị người đồng tính thật lôi kéo, dụ dỗ. Có không ít trường hợp em gái sinh ra trong gia đình nhiều chị em gái, khát khao con trai, đặt tên cho em cũng là tên con trai, từ nhỏ mọi người nhìn em như là một chàng hoàng tử trong gia đình, lâu dần em tự in hằn ý thức mình là con trai thật.

Các nhóm đối tượng đồng tính

Nhóm đối tượng có biểu hiện bẩm sinh từ nhỏ: có thể phân biệt hai thời kỳ mắc bệnh là thể bào thai và thể mắc bệnh sau khi sinh. Thực tế lâm sàng thường gặp thể bào thai, ít gặp thể sau khi sinh.

Nhóm đối tượng sống bằng giới tính ảo: Đối tượng này thực sự rất đáng phải quan tâm vì những nguy hiểm nhất sẽ xảy ra xoay quanh mối quan hệ phức tạp này. Từ chuyện đồng tính giả, nếu để lâu ngày và không có sự điều chỉnh hành vi thì có thể dễ dàng trở thành thật (sự biến dạng về tâm lý). Sự phát triển lệch lạc không lành mạnh về giới tính, nếu không được điều trị đến cùng trẻ sẽ sống thật với giới tính ảo. Việc này sẽ ảnh hưởng không tốt đến công việc, sự nghiệp của bản thân và các mối quan hệ xã hội.

Nhóm đối tượng thực sự muốn tìm được chính mình: Những hiện tượng đồng tính thực sự, dù là nam hay nữ, đó cũng là việc ở bất cứ xã hội nào và thời nào cũng có. Họ rất bình thường về mặt cơ thể học, hình thức như bất cứ người nào khác. Chỉ có xu hướng là muốn tình dục đồng giới.

Thể nam hóa ở các bé gái: Chiếm tỷ lệ 60% các trường hợp.

Trường hợp thứ nhất, bệnh gây tăng tiết androgen trước khi phát triển hoàn chỉnh cơ quan sinh dục nên dẫn đến phát triển cơ quan sinh dục kiểu giả ái nam ái nữ. Biểu hiện trên cơ thể: âm vật phì đại giống như dương vật, môi lớn, môi bé to, âm đạo, tử cung không phát triển.

Trường hợp thứ hai, tăng tiết androgen sau khi đã biệt hóa các cơ quan sinh dục và các ống sinh dục, ở bé gái bị bệnh lúc này chỉ thấy phì đại âm vật.

Trường hợp thứ ba, tăng tiết androgen sau khi sinh: ở bé gái sơ sinh, cơ quan sinh dục phát triển bình thường, nhưng về sau, cơ quan sinh dục bị biến đổi tùy thuộc vào tình trạng rối loạn chức năng vỏ thượng thận. Vì vậy trên lâm sàng có thể có các triệu chứng: trẻ mọc lông sớm theo kiểu đàn ông, âm vật phì đại, tử cung, tuyến vú không phát triển, rối loạn chu kỳ kinh nguyệt hoặc vô sinh.

Cần phải làm gì?

Cho đến nay, không thể xác định đồng tính do nguyên nhân sinh học hay nguyên nhân tâm lý. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng, vùng đồ thị trên não của những người thuộc giới thứ 3 có sự khác biệt nhất định so với những người thuộc giới tính thứ nhất hay giới tính thứ 2. Rõ ràng, nguyên nhân sinh học có ảnh hưởng không nhỏ. Tuy vậy, giả thiết khác cho rằng, môi trường gia đình, sự chăm sóc, cách giáo dục của bố mẹ và sự tương tác của cuộc sống xung quanh cũng là một yếu tố ảnh hưởng khá rõ đến biểu hiện của hiện tượng này. Các nhà khoa học đều có một nhận định chung rằng: đồng tính không phải là sự bệnh hoạn, tại ý muốn chủ quan của con người gây nên.

Tìm hiểu nguyên nhân của đồng tính ảo, có vai trò lớn của gia đình. Nhiều em đang sống trong một môi trường thiếu sự chăm sóc toàn diện về thể chất, tâm lý và sự giáo dục hòa nhập với xã hội của gia đình. Chính sự thiếu thốn tình cảm, khi đến tuổi dậy thì dễ dẫn đến sự “nổi loạn” về tâm lý và hành vi. Đối với những em bị lôi cuốn bởi bạn bè thì cũng có rất nhiều xung đột từ chính bản thân mình như: Sự kỳ thị nơi bạn bè, sự phản đối, sự xa lánh của xã hội mà đặc biệt là những người xung quanh đã làm cho các em trở nên cô đơn.

Khi thấy VTN có dấu hiệu lệch lạc giới tính, gia đình nên đưa con đi khám và gặp chuyên viên tâm lý để được khai thác bệnh sử, tìm hiểu về cuộc sống, về mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và tình trạng sức khỏe của VTN, để giúp các emcó khái niệm rõ ràng về giới tính của mình. Sự thay đổi cần một tiến trình dài. Để kéo VTN về giới tính thực, đòi hỏi cha mẹ phải thật kiên nhẫn, lắng nghe tâm tư tình cảm và góp ý sửa đổi hành vi chuẩn xác cho con. Nếu gia đình nóng vội, yêu cầu VTN phải cắt đứt các mối quan hệ, cách sống hiện tại đột ngột, con sẽ phản ứng theo chiều hướng xấu.

Đồng tính ở cả nam và nữ, về bản chất tâm lý, không có tội dù rằng chưa thể hoàn toàn bình thường nếu xét theo hệ quy chiếu chuẩn mực xã hội. Gia đình, xã hội nên tôn trọng và chấp nhận, tránh mọi sự kỳ thị, phân biệt đối xử.