Nghị lực phi thường của người phụ nữ suốt đời sống trong “lá phổi sắt”

Người em trai vừa mới qua đời thì bà hay tin mình cũng bị nhiễm dịch bệnh bại liệt. Sau đó, bà sống trong “lá phổi sắt” dài gần 2 m, nặng hơn 2 tạ suốt 61 năm.

Dù vậy, bà vẫn lạc quan yêu đời, đỗ thủ khoa một trường cao đẳng, hai trường đại học và là tác giả một cuốn sách lấy nước mắt của rất nhiều độc giả.

Hai nỗi đau lớn trong một gia đình

Martha Mason (SN 1937, Lattimore, Bắc Carolina, Mỹ) từng là một cô bé xinh đẹp, thông minh với mái tóc dài vàng óng. Lúc còn nhỏ, Martha thích đọc sách, có thể đọc từ ngày này sang ngày khác mà không thấy chán. Cô ao ước sau này trở thành một nữ nhà văn nổi tiếng trên thế giới. Thế nhưng, niềm ao ước của thiên thần nhỏ này nhanh chóng bị dập tắt. Từ năm 1940, một trận dịch bệnh bại liệt đã rơi xuống Bắc Carolina. Tất cả người dân ở đây đều hoảng sợ. Dịch bệnh càn quét khắp nơi và những đứa trẻ là nạn nhân lớn nhất. Lúc đó, Martha vô cùng lo sợ và luôn cầu nguyện dịch bệnh sẽ tha cho gia đình bé nhỏ của mình. Tuy nhiên, đến năm cô 11 tuổi, đứa em trai duy nhất đã bị nhiễm bệnh. Mặc dù cha mẹ đưa em của cô chữa từ bệnh viện này đến bệnh viện khác nhưng cuối cùng cậu cũng qua đời. Ngày đưa tang, Martha buồn bã không nhấc nổi đôi chân của mình.

Martha trở thành linh hồn của gia đình để cả cha và mẹ lo lắng, chăm sóc. Trong khoảng thời gian này, cô thường xuyên choáng váng, nhiều lúc không thể tự điều khiển được chân tay, những cơn đau nhói cứ liên tục diễn ra. Cô bắt đầu nhận ra, mình mắc bệnh tương tự em trai. Gia đình quá buồn vì vừa mất người thân, cô không muốn cha mẹ phải bận lòng. Do đó, cô giữ bí mật cho riêng mình.

Martha Mason luôn sống trong “lá phổi sắt”

Tuy nhiên, bệnh tật ngày càng nặng, sức khỏe yếu dần, hơi thở trở nên yếu ớt, cha mẹ cô dễ dàng phát hiện bệnh của con gái. Một lần nữa, ông bà đưa thêm đứa con của mình đi chữa trị. Nằm trên giường ở bệnh viện Asheville, cô bé 11 tuổi không tin vào tai mình khi vị bác sĩ thông báo: “Cháu bị liệt từ phần cổ đến chân. Có thể, suốt đời này cháu sẽ không bao giờ đi lại được. Sự sống kéo dài nhất là hai năm nữa”. Cô cố kìm những giọt nước mắt, nhưng cha mẹ thì không thể.

Bác sĩ cho biết, sự sống của Martha có thể kéo dài thêm vài năm nếu mang “lá phổi thép”. Sau thời gian ngắn suy nghĩ, cô không ngần ngại trả lời: “Con sẽ cố gắng”. Từ đó, thân thể của cô bị chôn vùi dưới khối sắt siêu nặng, chỉ còn phần đầu đưa ra ngoài. “Lá phổi” này do kỹ sư Havard Philip Drinker sáng chế vào giữa những năm 1920, là một khoang kín khí, được gắn các thiết bị máy móc có khả năng điều khiển tăng hoặc giảm áp lực khí trong khoang, qua đó mô phỏng hoạt động thở của con người. Nhiều vị giáo sư, bác sĩ hàng đầu của Mỹ nhận định, cô bé chỉ sống được chưa đến 5 năm.

Đậu thủ khoa hai trường đại học cùng lúc

Nhiều người khi bị bệnh tật sẽ bi quan, Martha cho rằng, ngày nào còn thở, còn mở mắt thì phải sống cho thật xứng đáng. Giai đoạn đầu, cô bé khá khó khăn bởi tiếng rò rò của động cơ cũng như sự vướn víu của “cỗ máy”. Rồi cô nhanh chóng hòa nhịp với cuộc sống mới. Dù bị chôn vùi trong khối sắt khổng lồ nhưng tinh thần ham hỏi hỏi của cô vẫn không suy chuyển. Mỗi ngày, cô nhờ cha mẹ đẩy mình đến trước chiếc tivi đen trắng để theo dõi những sự việc đang xảy ra. Cô thích đến gần chiếc cửa sổ để ngắm nhìn cuộc sống xung quanh. Tối đến, cô lại nhờ cha mẹ đọc sách cho mình nghe.

Mặc dù sống trong bệnh tật nhưng nụ cười luôn hiển hiện trên khuôn môi của bà.

Martha cho rằng, thân thể mình khác thường nhưng tâm trí thì vẫn minh mẫn, không thể cứ chôn vùi trong bốn bức tường lạnh lẽo mãi. Cô xin cha mẹ cho mình được đến trường. Cha mẹ cô từ chối. Không bỏ cuộc, cô dùng mọi lời lẽ để thuyết phục và cuối cùng cũng được chấp thuận. Mẹ cô đành phải bỏ công việc làm ở tiệm bánh để đến trường “phục vụ” cho con gái. Điều bà và các thầy cô giáo không thể tin nổi, cô tiếp thu bài vở rất nhanh chóng. Bên cạnh đó, cô tập cách nằm đọc sách, nói và nhờ mẹ viết lại tất cả những điều mình suy nghĩ. Không bao lâu, tất cả sách trong thư viện của trường đã được cô ngấu nghiến sạch.

Martha trở thành một trong những học sinh đứng đầu Bắc Carolina. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, cô nộp đơn nhiều trường đại học nhưng đều bị từ chối vì “lá phổi sắt” trên mình. Không nản chí, cô viết đơn xin nhập học và được trường cao đẳng Gardner-Webb chấp thuận. Hai nằm mày mò cùng sách vở, cô tốt nghiệp với tấm bằng loại ưu và được chuyển tiếp lên học đại học Wake Forest.

Khoảng thời gian này, cô nộp đơn và được một trường đại học nữa chấp thuận. Đối với một người bình thường, học một trường đại học đã là khó khăn, với một người không hoạt động được như cô lại càng vất vả hơn gấp bội. Hàng ngày, cô nghe giảng thông qua một hệ thống liên lạc nội bộ của trường. Cô hoàn thành xuất sắc tất cả những bài luận khiến các giáo sư giảng dạy phải thán phục. Đến năm 1960, cô đồng tốt nghiệp thủ khoa hai trường đại học trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Cô nổi tiếng khắp nước Mỹ và trở thành tấm gương sáng cho các ông bố, bà mẹ dạy dỗ con cái.

Tác giả khiến hàng triệu người độc rơi nước mắt

Thời gian trôi qua, Marth đã trở thành một người phụ nữ lớn tuổi. Về sau này, các nhà nghiên cứu đã sáng chế ra “lá phổi” kiểu mới nhỏ, nhẹ hơn và bà cũng được thử thay thế. Tuy nhiên, khi đeo những thứ này vào, bà cảm thấy không thích hợp nên trở về với “lá phổi sắt” cồng kềnh. Suốt mấy mươi năm đằng đẵng, bà vẫn phải nhờ vào sự chăm sóc của đấng sinh thành. Cha bà mất trong một cơn bạo bệnh. Chỉ còn một mình mẹ vừa lo lắng cuộc sống mưu sinh vừa chăm sóc đứa con gái bệnh tật gây ra khá nhiều ức chế. Do đó, nhiều khi mẹ bà trở nên giận dữ và đánh bà không khoan nhượng. Đến năm 1998, mẹ bà mất trí nhớ và qua đời không lâu sau đó.

Cận cảnh “lá phổi sắt” nhốt Martha Mason suốt 61 năm ròng rã.

Bạn bè thường xuyên tổ chức những bữa tiệc ngay tại nhà để bà cảm thấy thanh thản, vui vẻ hơn nhưng niềm tiếc nhớ người thân vẫn không thể xóa nhòa. Bà suy nghĩ rất nhiều về cuộc đời, sự sống, tình yêu và thù hận. Đến năm 2000, bà mua chiếc máy vi tính điều khiển bằng âm thanh tại nhà riêng ở Lattimore. Khi đó, bà thường xuyên viết thư điện tử, nghe nhạc cổ điển. Đồng thời, khao khát trở thành nhà văn từ ấu thơ vẫn còn ấp ủ trong tâm trí nên bà nảy sinh ý định viết hồi ký về cuộc đời mình.

Từ đó, không kể ngày đêm, Martha lại viết cuốn sách của chính mình. Hai năm trôi qua, cuốn sách đã hoàn thành. Đến năm 2003, cuốn sách này được xuất bản với tên Breath: Life In The Rhythm Of An Iron Lung (Hơi thở: Cuộc sống trong nhịp điệu của lá phổi thép). Cuốn sách có nội dung về những giai đoạn căng thẳng của cuộc đời bà, đặc biệt là với mẹ ruột. Bên cạnh đó, có những phần gợi lại tuổi thơ êm đẹp và những tháng ngày sống trong “lá phổi sắt”. Điều bạn đọc có thể cảm nhận là từng câu chữ của cuốn sách luôn hiện lên sự yêu đời, tha thiết với cuộc sống. Cuốn sách của Martha được bạn đọc đón nhận một cách nồng nhiệt, lấy nước mắt của rất nhiều độc giả và được xuất bản lại nhiều lần.

Người phụ nữ này đã ra đi vào ngày 4/5/2009. Dù vậy, những người quen biết khi nhắc lại vẫn luôn dành cho bà nhiều lời thán phục, tiếc thương và tình cảm thương mến. Họ cho rằng, chính nhờ vào tình yêu cuộc sống đã khiến bà chống chọi với bệnh tật, sống lâu dài khiến nhiều giáo sư, tiến sĩ ngành y học bất ngờ.