Tết nghèo trên đất vàng
Vượt qua suối Đắk Sa, con đường vào xã Phước Đức chợt ngoằn ngoèo, mất hút trong bụi đất. Suối nước cuối mùa mưa vẫn đục ngầu, hai bên bờ tan hoang bởi những bãi bồi, hầm hố, là “chiến sự” của nạn đào vàng. Ở đây, những đứa học trò bé như cái nấm, hằng ngày vẫn nhẫn nại trèo qua bờ bãi ngổn ngang này để lội bộ đến trường. Phân hiệu Plây La Gầm Đhak Hú thuộc trường tiểu học xã Phước Đức nằm bên mép đường dẫn đến bãi vàng đầy gió bụi. Thay vì khuất lấp dưới bóng cây rừng như cách đây 10 năm, khi tôi đến, trường học bây giờ đã được xây tường gạch, ấm cúng, nhưng cả cụm cũng chỉ vỏn vẹn 3 lớp học như xưa. 100% học sinh ở đây là con em đồng bào M'Nông bản địa. Phần lớn sau khi vượt qua cấp tiểu học, các em đều sớm bỏ trường, bươn chải cõng chuyến hoặc làm phu cho các hầm lò đào đãi vàng. Chỉ những cô giáo miền xuôi của chúng thì vẫn còn ở đây, vẫn nghèo như xưa, dẫu có người đã bám trụ gần 15 năm.
Cô giáo Nguyễn Thị Xuân lóng ngóng tiếp chúng tôi giữa sân trường, có lẽ vì không có được một ly nước chè nóng, một chỗ ngồi nghỉ chân cho khách đường xa. Ở phân hiệu này chỉ có 3 phòng học, giờ giải lao, cô giáo cũng chỉ biết đứng giữa sân. Ở các trường học miền núi khó khăn đều có cảnh tượng tương tự vậy. Cô Xuân - người con gái ở miệt biển Thăng Bình, sau khi tốt nghiệp ở Trường Sư phạm Đà Nẵng, “trôi dạt” một vài nơi xin việc bất thành, cô thiếu nữ trẻ trung mới lên tận miền núi xa, với ý nghĩ tìm việc làm tạm một thời gian. Nào ngờ, đường về quê ngày một xa lắc, thấm thoắt đã... 16 năm. Bây giờ thì, cô Xuân không còn nghĩ đến việc xin chuyển về xuôi nữa, dẫu gia đình vẫn một cảnh ba quê, chồng là cán bộ xã ở nơi heo hút núi Phước Hiệp. Hỏi đến chuyện gia đình, thu nhập, chúng tôi phải vòng vo, bởi thấy cô rụt rè, ít nói, giấu thân phận mình như cách cư xử của người M'Nông bản địa.
“Lương giáo viên thì ở đâu cũng gần giống nhau cả thôi anh ạ, nhưng dạy miền núi như bọn em thì được cộng thêm hệ số lương từ 0,4 - 0,7, tuỳ thâm niên công tác, tức mỗi tháng hơn miền xuôi khoảng 1 triệu đồng. Trường ở vùng cao, 100% phụ huynh thuộc diện hộ nghèo, các em đến trường còn không đủ cơm ăn, áo mặc, học phí không đóng nên ngoài lương thì cán bộ, giáo viên không có thêm được phụ cấp nào” - cô Xuân nói.
Vậy dịp tết, các cô được thưởng bao nhiêu tiền? Có vật phẩm gì không? Dẫu câu hỏi của chúng tôi đã ra chiều chia sẻ hơn là “tọc mạch” đời tư, nhưng các cô giáo ở đây vẫn ngượng nghịu, thiếu tự tin.
Cô Nguyễn Thị Trang cho biết, hơn 10 năm công tác ở huyện miền núi Phước Sơn này, em chưa hề biết đến khái niệm thưởng tết. Chưa từng nhận được một đồng nào gọi là quà tết cả. Hằng năm công đoàn trường trích thu 1% từ lương để làm quỹ. Số tiền này chi cho các hoạt động thăm hỏi nhau khi ốm đau, cưới xin, sinh nở... của cán bộ giáo viên trong trường. Kết sổ cuối năm nếu còn dư, thì chị em ban nữ công xuống thị trấn, mua ít hạt dưa, nước mắm, dăm gói mì chính về chia nhau, nhưng mỗi thứ chưa bao giờ quá nửa ký. Nhưng cũng có nhiều năm, quỹ công đoàn bị âm, không còn gói quà nhỏ ấy nữa.
Tôi chợt thấy mình “hớ hênh” khi đặt hỏi... chạm đến niềm buồn tủi của các thầy cô ở đây. Nhưng điều lạ, các cô đều không hề than trách, ngược lại tỏ ra thương xót cho lũ học trò nhem nhút của mình thiếu áo ấm.
“Giáo viên tuy nghèo nhưng đâu thiếu cái ăn, áo mặc. Trong khi phụ huynh, các em của chúng tôi còn quá nghèo, dù vùng đất được mệnh danh là xứ sở vàng, nhưng người dân muôn đời nay vẫn kham khổ, mình không thể buồn được khi ở bên cạnh những người này” - cô giáo Nguyễn Thị Xuân còn chia sẻ thêm - “em đã bám trụ Phước Sơn gần 16 năm, trong đó dạy ở Phước Năng gần 9 năm, mới về phân hiệu này 7 năm. Bây giờ đi lại đã tiện đường rồi, ngày xưa phải mất 2 ngày đường mới đến được trường lớp. Nhiều năm tụi em phải ở lại cả tết vì lũ lụt, chia cắt đường, người dân đã góp tặng đôi khi chỉ mớ rau rừng, ốc đá, dăm cái măng rừng. Đó là những món quà tết đầy tình cảm nhất của những giáo viên vùng cao”.
Lâu rồi chưa ai nhắc đến thưởng tết!
Thầy giáo Lê Văn Hà - Trưởng phòng GDĐT huyện Phước Sơn (Quảng Nam) - cho biết, toàn huyện chỉ có 12 xã, 29 trường học nhưng vì rải rác trên các vùng núi cao nên có đến 78 phân hiệu. Đời sống sinh hoạt của giáo viên miền núi cao tất nhiên là khó khăn hơn rất nhiều so các vùng miền khác. Riêng việc thưởng tết là khái niệm đã bị lãng quên trong tâm thức của các thầy cô. Từ những năm 1993 - 1994 trở về trước, chính quyền huyện còn hỗ trợ kinh phí, tặng quà tết mỗi giáo viên được 0,5kg hạt dưa, 1 gói mì chính, một chai nước mắm. Nhưng hơn 20 năm nay bị cắt hoàn toàn. Tiền quỹ trích từ chính lương hằng tháng của các thầy cô thường không đủ việc thăm hỏi, hiếu hỉ trong năm.
Thầy Hà nói, vài năm trước đây, ngành giáo dục cũng có kiến nghị, đề xuất, nhưng vấn đề này không được giải quyết bởi quá tầm của cấp huyện, thậm chí tỉnh. Địa phương không có nguồn nào để chi thưởng cho cán bộ, giáo viên thì mình biết kiến nghị cũng bằng không. Vả lại, huyện này có đến 70% hộ nghèo, tết là dịp mà chính quyền phải tập trung chăm lo cho dân. Giáo viên, dẫu sao cũng còn có đồng lương, anh em ai cũng không đòi hỏi, vì vậy lâu lắm rồi, chẳng ai nhắc đến chuyện thưởng tết nữa.
“Dẫu đã xác định là vậy, nhưng nhắc đến thưởng tết, anh em giáo viên chúng tôi ai cũng ngậm ngùi. Ở miền xuôi, đồng nghiệp mình ít nhiều cũng đều có thưởng tết. Ngay công nhân lao động chân tay, dịp tết họ cũng còn được có thưởng. Rõ ràng giáo viên còn quá nhiều thiệt thòi”.
Tôi chợt nhớ, tại TP.Đà Nẵng, ngoài những túi quà hiện vật, mỗi giáo viên đều được thưởng từ 1- 2 triệu đồng/người, chưa kể họ được thụ hưởng bao nhiêu điều kiện sinh hoạt thuận lợi khác. Theo ông Lê Trung Chinh - Giám đốc Sở GDĐT TP.Đà Nẵng - ngành giáo dục không có tiền, quỹ để trích thưởng tết, tuy nhiên UBND TP.Đà Nẵng từ hơn 10 năm nay đã trích ngân sách hỗ trợ thưởng tết cho giáo viên. Ngoài ra, các trường còn cân đối thu chi, trích quỹ để cuối năm chi thưởng. Nói chung, thưởng tết cho giáo viên ở thành phố không cao, nhưng không đến nỗi “tủi thân” như công nhân hoặc các đồng nghiệp ở các địa phương nghèo khác.
Trở lại câu chuyện với thầy Hà, ông cho biết hiện nay, thu nhập của giáo viên miền núi đã được cải thiện nhiều, song người cao nhất huyện cũng chỉ 12 - 13 triệu đồng/tháng. Còn lại, trung bình thu nhập các thầy cô chỉ 7 - 8 triệu đồng/tháng. Rõ là đồng lương có cao hơn so đồng nghiệp ở miền xuôi, nhưng nếu có gia đình thì họ không đủ chi tiêu. Ở các xã vùng cao như Phước Kim, Phước Lộc, Phước Thành, Phước Chánh, trước đây muốn vào đến nơi phải mất 1 đến 2 ngày đường. Tiền xe thồ ra vào là 3 triệu đồng, mắc hơn cả đi vào TPHCM bằng máy bay. Ngày đông tháng tết, thường sạt núi tắc đường, vật giá leo thang. Có lúc, giá gạo ở đồng bằng chỉ 7.000 - 8.000 đồng/kg thì ở Phước Sơn là 10.000 - 11.000 đồng/kg, còn ở các xã như Phước Thành, Phước Lộc... là 20.000 đồng/kg.
Để có tiền về quê ngày tết, các thầy cô phải khiêng xe máy về các cụm xã vùng thấp, gửi vào nhà dân rồi băng về Khâm Đức để tiết kiệm. Làm thế thì ngày tết ở quê lại không có xe để đi lại. Cũng theo thầy Hà, sự khốn khó, thua thiệt của giáo viên vùng cao đã thành câu chuyện quen tai từ lâu nay. Câu chuyện về thưởng tết trở thành nhỏ bé trong mớ ngổn ngang của thực trạng giáo dục ở miền núi. Điều ưu tư nhất của cán bộ ngành GDĐT huyện Phước Sơn trong những ngày cận tết hiện nay là các hoàn cảnh bi đát, lâm bệnh hiểm nghèo của các đồng nghiệp mình.
Thầy Lê Văn Hà kể, thầy Nguyễn Trúc, hơn 20 năm gắn bó với tiểu học Phước Chánh, tuổi xuân chôn vùi ở khuất lấp vùng cao, bây giờ lâm bệnh nặng, gần như nằm liệt tại chỗ trong khi kinh tế gia đình thuộc diện khốn khó; thầy Trịnh Minh Hà cũng một đời cống hiến cho học trò vùng cao, bây giờ cũng rơi vào giai đoạn cuối của căn bệnh suy thận; cô giáo Bạch Thị Thu Hà ở tận xã Phước Thành cũng nguy kịch với bệnh nhiễm trùng máu... Ngành giáo dục huyện cũng chỉ hỗ trợ diện ốm đau với mức cao nhất là 10 triệu đồng, trong khi hoàn cảnh các thầy cô này quá thương xót. Món quà thưởng tết không phải là câu chuyện lớn ở địa phương mà cả trò lẫn thầy còn nhiều khó khăn như ở huyện miền núi Phước Sơn này.