35 năm cuộc chiến biên giới phía Bắc
- Trước lúc tiến hành cuộc chiến, lãnh đạo Trung Quốc tuyên bố “dạy cho Việt Nam một bài học”. Theo ông thực chất của việc phát động cuộc chiến biên giới 1979 là gì ?
- Trước hết, tự thân lời tuyên bố của ông Đặng Tiểu Bình vào thời điểm ấy cho thấy thái độ kẻ cả của một nước lớn với Việt Nam. Ông Đặng không nói ra nội dung "bài học gì" nhưng theo tôi với một cuộc chiến tranh thì cuối cùng, cả bên đánh lẫn bên đỡ, bên được hay bên thua... đều rút ra được những bài học thích đáng.
Nhìn vào thời điểm Bắc Kinh phát động cuộc chiến, mục tiêu đầu tiên là cứu vãn chế độ diệt chủng Pol Pot-Khmer Đỏ vừa bị đánh bật khỏi Phnom Penh và bị đẩy vào nguy cơ diệt vong ở Campuchia. Đó là kết quả cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam của Việt Nam và giúp đỡ lực lượng yêu nước Campuchia chống chế độ diệt chủng Khmer Đỏ.
Mục tiêu tiếp theo của Trung Quốc là khẳng định với Mỹ không còn ràng buộc gì với những yếu tố hệ tư tưởng giữa các quốc gia từng là một khối liên minh chống Mỹ và là đồng minh của Việt Nam trong cuộc chiến tranh mà Mỹ vừa thất bại. Mục tiêu đó cũng phù hợp với chính sách của Mỹ là duy trì cấm vận và thù địch mang “hội chứng Việt Nam” với quốc gia mà Trung Quốc tấn công. Nói cách khác, cuộc chiến này cũng giúp tăng cường mối liên minh với Mỹ được xác lập từ sau chuyến thăm Trung Quốc của tổng thống Mỹ Nixon, trong thời kỳ cuộc chiến tranh Việt Nam đang diễn ra (1972).
Cuộc chiến tranh này cũng nhằm đối phó với mối quan hệ Việt-Xô được tăng cường trong bối cảnh căng thẳng thù địch Trung-Xô ngày càng tăng, đã xảy ra những xung đột vũ trang trên biên giới Trung-Xô. Nói cách khác, Trung Quốc đã đảo chiều chiến lược từ chỗ là đồng minh với Liên Xô thành đồng minh của Mỹ chống Liên Xô. Điều đó cũng gắn với mục tiêu cơ bản nhất là muốn Việt Nam phải trở lại vòng ảnh hưởng luôn được giới lãnh đạo Trung Quốc coi là mang tính “truyền thống”. Và cũng không thể không nói đến ý đồ của Trung Quốc đối với Biển Đông mà cuộc đánh chiếm Hoàng Sa của Việt Nam đầu năm 1974 là những bước thăm dò quan trọng, trong đó có thái độ thoả hiệp của Mỹ.
- Vậy những bài học ấy đã được nhận thức như thế nào?
- 35 năm sau cuộc chiến tranh ấy, tôi nghĩ đã có rất nhiều bài học được rút ra, không phải theo cách tuyên truyền mà bằng thực tế những gì đã diễn ra và chắc cũng không chỉ có bài học với riêng Việt Nam.
Đầu tiên là bài học về hoà bình. Trong quá khứ, nếu cộng tất cả thời gian diễn ra các cuộc động binh của phương Bắc đánh vào nước ta và những cuộc kháng chiến của người Việt qua các triều đại, thì chiến tranh rất ngắn so với thời gian duy trì mối quan hệ hoà hiếu giữa hai nước. Qua trải nghiệm, ông cha ta đã tạo được bản lĩnh biết cách tồn tại bên cạnh một nước Trung Hoa có nhiều thăng trầm và có sức mạnh bành trướng, cũng như những nguồn lực văn minh, để cùng một lúc vừa giữ được hoà hiếu vừa giữ đựơc chủ quyền.
Khi Trung Quốc động binh ào ạt đánh chiếm các tỉnh biên giới phía Bắc, bài học đầu tiên được rút ra là sự trưởng thành về nhận thức của người Việt Nam. Đó là không thể ảo tưởng rằng có những giá trị cao hơn tinh thần và lợi ích dân tộc, đương nhiên không phải chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Thực tiễn cho thấy Việt Nam vẫn đứng vững là một quốc gia độc lập, tự chủ và có chủ quyền. Sau Đổi mới là tiến trình hội nhập sâu rộng với thế giới, trong đó có việc xác lập những quan hệ hợp tác ngày càng có hiệu quả với các quốc gia trên thế giới. Mối quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia từng thù địch trong quá khứ, đặc biệt là Pháp và Mỹ hay Hàn Quốc, Nhật Bản... là những bằng chứng sống động về bài học rút ra từ các cuộc chiến tranh. Bài học rút từ chiến tranh luôn là bài học để gìn giữ hoà bình.
Với Trung Quốc, trong 35 năm qua chúng ta cũng chứng kiến những bước đi dài và đầy khó khăn từ chỗ bình thường hoá đến việc xác lập quan hệ đối tác chiến lược, toàn diện như ngày nay. Đó là cơ sở để chúng ta tiếp tục phát triển mối quan hệ với nước láng giềng nhiều tiềm năng, đồng thời cũng để giải quyết những vấn đề của quá khứ liên quan đến chủ quyền giữa hai nước mà nổi cộm nhất là quần đảo Hoàng Sa và những vấn đề liên quan đến Biển Đông, cùng với cộng đồng quốc tế. Không có môi trường hoà bình sẽ không bao giờ giải quyết được những vấn đề của quá khứ. Cho dù biết trước là rất khó khăn nhưng đó là cuộc đấu tranh kiên trì và không chỉ của riêng hai nước.
Việc Toà án quốc tế đang tiếp tục hoàn thành việc xét xử tập đoàn diệt chủng Pol Pot như tội phạm chiến tranh; việc cố Quốc vương Norodom Xihanuc hay những nhà lãnh đạo Campuchia đương đại xác nhận sự đóng góp to lớn và quyết định, bằng xương máu của nhân dân Việt Nam trong việc tiêu diệt Khmer Đỏ giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng là bằng chứng thuyết phục để thế giới hiểu hơn về cuộc chiến tranh Trung Quốc đã phát động 35 năm về trước.
Hành động của Trung Quốc thời kỳ đó đã khiến Việt Nam phải mất ngót một thập kỷ mới giúp đỡ nhân dân Campuchia tiêu diệt được hoàn toàn Khmer Đỏ. Người dân Việt Nam không chỉ hy sinh xương máu mà còn bị thế giới cô lập vì tuyên truyền của Trung Quốc lên án Việt Nam xâm lăng Campuchia.
Trên bình diện quốc tế, những xung đột lợi ích của Trung Quốc với Mỹ (đồng minh cách đây 35 năm) những đòi hỏi quá đáng và không căn cứ của Trung Quốc đối với chủ quyền của nhiều nước khác trên biển, trong đó có Biển Đông, cho thấy bài học quá khứ vẫn còn giá trị trong những nỗ lực phát triển mối quan hệ hoà hiếu với “người láng giềng định mệnh” ở phía Bắc này. Vì thế, người Việt Nam vẫn phải thuộc bài học lớn nhất mà tổ tiên qua bao thế hệ đúc kết là phải biết đoàn kết bên trong thì mới giữ vững chủ quyền và phát triển đất nước, mới giữ được mối quan hệ hoà hiếu thực sự với thiên hạ bên ngoài mà Trung Quốc luôn có một vị thế quan trọng.
- Ông nghĩ sao về việc nhiều năm nay giai đoạn lịch sử này gần như biến mất khỏi chính sử, sách giáo khoa, giáo trình đại học?
- Hiện tượng nêu trên là có thật. Trong các bảo tàng lịch sử hiện đại khoảng trống này đôi khi đặt ra những câu hỏi rất đáng suy nghĩ của các khách tham quan, nhất là với các bạn trẻ.
Tôi tin, trong công tác nghiên cứu, chiến tranh biên giới phía Bắc vẫn được quan tâm vì quan hệ với Trung Quốc mãi mãi vẫn là một nhân tố rất quan trọng. Những tài liệu lưu trữ hay hiện vật lịch sử có thể vẫn còn, nhưng việc không đuợc đưa vào giảng dạy, trưng bày và để cho các thế hệ biết tới, theo tôi là sai lầm.
Vấn đề là cách trình bày, thông điệp của chúng ta khi đề cập tới những sự kiện loại này không nhằm kích động hận thù mà là những bài học về trách nhiệm với hoà bình. Nhân dân nước nào cũng ưa chuộng hoà bình. Ứng xử của chúng ta với những giai đoạn lịch sử thời kháng chiến chống Pháp hoặc chống Mỹ là những bằng chứng. Bảo tàng chứng tích chiến tranh ở TP HCM thu hút không chỉ khách trong nước mà cả khách nước ngoài, cũng như những người từng ở bên kia chiến tuyến đến xem và mang lại hiệu ứng rất tích cực. Tại sao Chiến tranh biên giới 1979 lại là ngoại lệ? Một cuộc chiến tranh chống xâm lược phải là một niềm tự hào cần tôn vinh đối với công lao và sự hy sinh của một thế hệ.
Phải chăng ai đó vẫn viện vào cái phương châm “khép lại quá khứ để hướng tới tương lai?” Hiểu khép lại như thế nào là đúng mới quan trọng. Chiến tranh là một hiện tượng mà nhiều dân tộc đã trải qua phải đối diện với những di sản của nó.
Giới sử học nhiều nước từng có chung mong muốn là làm sao sách giáo khoa không che giấu sự thật về các cuộc chiến tranh trong quá khứ, nhưng lại không khoét sâu tâm lý thù địch giữa các dân tộc, quốc gia. Nói cách khác là thái độ của chúng ta trước những hố sâu ngăn cách bởi những cuộc chiến tranh trong quá khứ như thế nào. Khoét sâu thêm thù hận? Lấp đầy bằng sự quên lãng? Cuối cùng, cách tốt nhất là trân trọng giữ lại nguyên vẹn sự thật của quá khứ như những trải nghiệm đau thương và vượt qua hố sâu đó bằng một cây cầu hữu nghị mà mỗi bên đều có trách nhiệm xây đắp.