Sát hại con đẻ, lãnh án sau 9 năm trốn nã

TAND tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm tuyên phạt Lâm Thị Ngọc Sương mức án 7 năm tù về tội "Giết người". Nạn nhân là con đẻ của Sương với người chồng đã mất vì căn bệnh HIV.

Lấy nhầm chồng nghiện

Theo hồ sơ, năm 1995 Lâm Thị Ngọc Sương (quê ở Hồng Ngự, Đồng Tháp) vừa tròn 20 tuổi đã kết hôn với anh Nguyễn Văn Khâm ở xã Lê Chánh, huyện Tân Châu, tỉnh An Giang. Sương là con gái nhà nghèo, ở tỉnh xa nên khi lấy chồng vào được cửa nhà giàu thì rất phấn khởi, ngỡ đời mình sẽ được bao bọc trong nhung lụa. Nhưng về rồi mới biết chồng Nhung ăn chơi trác táng, “bán trời không văn tự”, lại mắc nghiện ma túy. Lấy chồng đầu năm, cuối năm Sương sinh con trai, gia đình chồng rất mừng, đặt tên cháu bé là Nguyễn Bảo Còn, nghĩa là báu vật còn giữ được. Nhưng “hạnh phúc ngắn chẳng tày gang”, năm 2003 chồng Sương chết vì HIV, lây căn bệnh thế kỷ sang cả vợ, con. Quá đau đớn và căm hận, sau đó Sương nhờ vợ chồng người em trai làm giấy khai sinh và đổi tên con thành Lâm Bảo Duy (lấy họ mẹ) để tương lai của con mình không dính dáng gì đến người cha của nó.

Bé Duy nhiễm HIV từ mẹ do người cha truyền bệnh sang nên đau ốm oặt ẹo, từ ngày chồng chết Sương phải chật vật vay mượn để chữa bệnh cho con, nợ nần chồng chất. Đến năm 2005, món nợ từ việc chữa bệnh cho con lên tới 14 triêu đồng, không có khả năng trả nợ khiến Sương vô cùng bức bách. Nghĩ bản thân mình đau ốm, cũng mang căn bệnh thế kỷ nhưng không được chữa trị, vẫn phải quần quật lao động nên Sương nảy sinh ý định mua thuốc trừ sâu để hai mẹ con thoát khỏi bể khổ trần ai. Khoảng 17h ngày 10/11/2005, khi đưa Duy đi khám bệnh trở về nhà tại ấp Long Hòa 2, xã Long Hòa, huyện Phú Tân, Sương đến tiệm mua hai gói thuốc sâu hiệu Validacin và một chai thuốc dưỡng cây cho vào chén pha với thuốc nam cho Duy uống được khoảng 1/3 chén, phần còn lại Sương uống hết. Uống xong, Sương bị nôn và nằm bất tỉnh trên giường, bé Duy thấy mẹ trong tình trạng nguy kịch nên hoảng hốt tri hô, gọi mọi người cứu mẹ. Nghe tiếng kêu của cháu, anh chị và thím chồng của Sương chạy đến xem đã đưa Sương đi cấp cứu, điều trị tại Bệnh viện Đa khoa TX.Tân Châu. Khi mọi người quay về nhà thì thấy bé Duy bị mệt, trên người có thuốc trừ sâu và nghe Duy nói lại Sương cũng cho Duy uống, mọi người đưa Duy đi cấp cứu, nhưng nạn nhân tử vong ngay sau đó. Còn Sương điều trị đến ngày 18/11/2005 thì ra viện. Thay vì phải ra trình diện pháp luật để phục vụ công tác điều tra, Sương bỏ về nhà cha mẹ ruột ở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp sinh sống. Sau đó Sương bỏ trốn đến tỉnh Bình Dương làm thuê sinh sống.

Trốn nã, nhiễm HIV vẫn lấy chồng, sinh con

Lâm Thị Ngọc Sương trong phiên tòa xét xử

4 năm sau ngày sát hại đứa con bệnh tật, yểu mệnh, Sương nhận thấy nếu cứ đau đớn, dằn vặt mãi cũng chẳng giải quyết được gì. Sống khép kín, còn trẻ đẹp nên Sương vẫn có đàn ông săn đón. Đến năm 2009, Sương chung sống như vợ chồng với Võ Văn Tung (SN 1976, quê ở ấp Phú Hữu 1, xã Lê Chánh, TX. Tân Châu) tại Bình Dương. Sương phải giấu thân phận thật của mình, giấu cả căn bệnh mang tên “thần chết” đang có trong người. Anh Tùng không biết gì về Sương, chỉ nghe tâm sự rằng tình duyên lỡ dở. Quá trình chung sống, hai người khá hạnh phúc, có một con chung. Đến ngày 30/5/2014, Sương bị bắt theo lệnh truy nã về tội “Giết người” thì anh Tung mới té ngửa.

Tại phiên tòa sơ thẩm, mặc dù vụ án xảy ra gần chục năm nhưng dư luận vẫn tỏ ra bức xúc trước hành vi của người mẹ táng tận lương tâm. Đã thế, sau khi phạm tội, Sương đã trốn tránh pháp luật, rồi thản nhiên lấy chồng, sinh con ở nơi khác. Càng bức xúc hơn khi tại phiên xử, Sương tỏ thái độ bất cần đời, không gợn chút ăn năn, vẫn cố tình đổ lỗi cho hoàn cảnh quẫn bách nên mới “giải thoát” cho con. Sương còn công khai nói rằng bản thân bị cáo đã mắc căn bệnh thế kỷ nên chẳng còn gì để mất.

Hội đồng xét xử nhận định hành vi phạm tội của bị cáo Lâm Thi Ngọc Sương là đặc biệt nghiêm trọng, đã trực tiếp tước đi sinh mạng con ruột của mình, gây tâm lý hoang mang trong dư luận nhân dân, làm mất an ninh trật tự tại địa phương nên cần có mức án nghiêm mới đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo, góp phần phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, thuộc thành phần lao động nghèo, trình độc học vấn thấp, hiểu biết pháp luật có phần hạn chế, nên đã tuyên mức án như trên.