Dân tộc Mông
Tết cổ truyền của dân tộc Mông thường tiến hành trước tết nguyên đán khoảng 1 tháng (từ ngày 30/11 đến 15/12 âm lịch). Theo phong tục, trước tết khoảng 1 tuần đồng bào dân tộc Mông gác lại công việc đồng áng để trang hoàng, sửa sang lại nhà cửa, dọn dẹp bàn thờ.
Nhiều hoạt động vui chơi văn hóa, văn nghệ sôi nổi với các bài hát, điệu múa mang đậm bản sắc dân tộc, ca ngợi về tình yêu quê hương, đất nước. Tổ chức thi giã bánh dày, ném pao, đẩy gậy, bắn nỏ, tù lu… với sự tham gia của hàng nghìn lượt đồng bào các dân tộc trên địa bàn xã và các xã lân cận. Ngoài các trò chơi dân gian mang đậm bản sắc dân tộc, tù lu, bắn nỏ, ném pao… những chàng trai người Mông còn dùng tiếng khèn để tìm bạn tình. Và các cô gái tuổi đôi mươi đôi xinh đẹp, rạng rỡ trong váy áo may thêu cầu kỳ bằng điệu múa uyển chuyển theo tiếng khèn khiến bao chàng trai say lòng.
Dân tộc Cao Lan
Dân tộc Cao Lan (còn gọi là Sán Chay) có số dân hơn 60.000 người, cư trú chủ yếu ở 37 xã thuộc 3 huyện Sơn Dương, Yên Sơn, Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang.
Tết Nguyên đán của người Cao Lan thường được bắt đầu từ 25, 26 tháng Chạp đến hết rằm tháng Giêng. Trong những ngày này, mỗi tối trước khi đi ngủ, chủ gia đình thắp một nén hương thơm lên bàn thờ, mang ý nghĩa thông báo và mời tổ tiên về ăn tết, đón xuân cùng con cháu.
Người Cao Lan thường tự làm bánh chưng, bánh gai, bánh rán, bánh chè lam để ăn tết... Bánh chưng của người Cao Lan có hình trụ dài, có thể vắt được trên vai (nên có nơi còn gọi là bánh vắt vai), chắc nịch, bánh xanh dẻo quyện với hương thơm của gạo đỗ mới và thịt lợn hồng. Một loại bánh nữa được ưa chuộng là bánh gai.
Các phong tục đầu năm là những nét đẹp trong truyền thống văn hoá của dân tộc Cao Lan, vẫn luôn được bà con tiếp tục duy trì và gìn giữ, mang đậm ý nghĩa nhân văn sâu sắc và những giá trị tinh thần to lớn.
Tết cổ truyền của dân tộc Hà Nhì
Tết Nguyên Đán của đồng bào Hà Nhì diễn ra chừng 1 tuần lễ. Suốt 1 tuần đó, ngày cũng như đêm, khắp trong bản ngoài mường đâu đâu cũng tưng bừng, nhộn nhịp. Khi các bậc trưởng lão ngồi cạnh nhau bên mâm rượu, để ôn lại những câu chuyện về lai lịch dòng tộc từ 9, 10 đời trước; hoặc nói với nhau những ước nguyện sâu xa về dâu hiền cháu thảo, về kinh nghiệm mùa màng... Thì ở ngoài trời, các loại trống, chiêng, đàn, sáo cùng rộn rã vang lên. Trong bộ trang phục truyền thống đẹp nhất của mình, từng đôi nam thanh nữ tú tay giấu trong tay, mắt soi vào mắt, cùng say sưa nhảy những điệu sơn vũ được lưu truyền từ muôn kiếp cha ông. Sau những trò chơi đố lá dang dở, sau những cuộc hát đối nửa chừng và cuối cùng là sau những ngày vui Tết, rất nhiều lứa đôi đã trở nên tâm đầu ý hợp, thầm mong ngày "buộc chỉ cổ tay"...
Lễ tết cổ truyền của người Chăm
Ðồng bào Chăm còn gọi là Chàm, hiện đang sinh sống tại một số tỉnh như Bình Thuận, Ninh Thuận và một số ít tại Châu Giang (tỉnh An Giang).
Cũng như các dân tộc anh em khác, người Chăm ăn Tết cũng rất linh đình, nhộn nhịp. Hai lễ lớn nhất trong năm là Păng-Katê và Păng-Chabư được xem như cái Tết của họ.
Ngoài hai lễ lớn trên, người Chăm còn có các lễ khác trong năm như: Lễ cúng thần nông vào tháng 4 theo lịch Chăm, cử hành vào các đền, tháp; lễ cầu đảo (Chakap Hiâu Kron) cử hành tại các đập nước hay ở các bờ sông, bờ suối; lễ cúng ruộng (Pô Phùm) để cầu cho ruộng lúa tốt tươi và lễ Tống ôn (Rija Nưgar) tổ chức vào mồng một tháng giêng theo lịch Chăm, để cầu cho làng xóm, gia đình được thịnh vượng, an khang.
Tết của người Cơ Tu
Vào mùa xuân, lúc bắt đầu vụ mùa lúa mới, đồng bào các huyện Phước Sơn, Giằng, Hiên ở Quảng Nam tổ chức ăn Tết Prơ-giê-răm. Đây là ngày lễ lớn nhất trong năm. Nhà nhà đều trang trí hết sức đẹp đẽ. Các loại ghẻ, cung nỏ, giáo, mác, thanh la, trống, chiêng được lau chùi cẩn thận. ở nhà Guơi (nhà làng) người ta dựng cột đâm trâu bằng cây gạo trạm trổ, sơn vẽ đẹp mắt. Nhiều sinh hoạt văn hoá diễn ra tại nhà Guơi như kể chuyện, nhảy múa, hát dân ca. Con gái được dịp trao đổi tâm tình và rủ nhau chơi xuân kéo dài cả tháng...
Tết của người Dao
Người Dao ở Việt Bắc cho rằng, ngày đầu năm không được làm việc mà chỉ lo vui chơi, thăm viếng và chúc tụng lẫn nhau. Nhà nào nhà ấy đều trang hoàng sáng sủa và dán nhiều câu đối bằng chữ Hán lên cột nhà hay trên các vách tường để đón mừng xuân.
Người Dao đón Tết bằng tết nhảy gọi là "Nhiang chằm Ðao" để rèn luyện sức khoẻ và võ nghệ. Tết nhảy bắt đầu trước tết Nguyên Ðán chừng vài ba hôm. Thanh niên phải tập các điệu múa, điệu nhảy, làm gươm đao bằng gỗ để múa. Tết nhảy, mỗi người phải nhảy múa đến hàng trăm lượt trong tiếng trống, tiếng thanh la giục giã...
Tết của người Xơ Đăng
Người Xơ Đăng ở Kon Tum ăn tết rất giản dị và chỉ có hai tết rất giản dị và chỉ có hai tết chính là tết Giọt nước và tết Lửa. Tết Giọt nước vào khoảng tháng 3 dương lịch. Sau khi mãn mùa, người Xơ Đăng bắt đầu sửa sang lại các máng nước và tổ chức lễ "cúng máng" để cầu mong Thần nước (Yang Dak) ban cho dân làng năm mới được mùa , nước non đầy đủ.
Người trong buôn làng mang choé, nồi đồng ra tại các máng nước để lấy nước mang về nhà, đồng thời tổ chức ăn uống, vui chơi suốt mấy ngày liền. Riêng "Lễ cúng máng nước" cho buôn làng thì được tổ chức tại nhà Rông, do thầy cúng tổ chức vui say, ca hát, nhảy múa, gái trai được tự do trao đổi tâm tình.
Tết của người Hrê
Tết của người Hrê ở Quảng Ngãi cũng kéo dài suốt vài tháng liền. Mỗi gia đình phải lo nấu bánh tét, làm rượu cho thật nhiều. Nhà giàu có phải nấu từ 20 đến 40 nồi bánh tét, ủ hàng trăm ché rượu cần, hạ vài con trâu để đãi khách và bà con trong buôn làng. Tất cả mọi người đều tề tựu về nhà chủ làng để ăn mừng, chúc tụng lẫn nhau. Sau đó mới lần lượt đến các nhà khác. Họ vừa ăn uống vừa múa hát. Ðàn ông thì đeo ống chinh, còn đàn bà thì đeo ống bương lấy hai tay vỗ vào đầu ống sẽ tạo thành tiếng bập bùng, bập bùng...
Họ thích trò chơi nhảy kẹp. Hai người một nam, một nữ dùng một đòn nhảy dài chừng hai mét, trơn láng rồi đập vào nhau. Cứ hai người ngồi đập thì hai người nhảy, thay đổi cho nhau.
Tết của người Gia Rai
Tết bỏ mả của đồng bào Gia Rai ở tỉnh Gia Lai cũng tương tự như tết ăn nhà Mả của đồng bào Ba Na nhưng được tổ chức lớn hơn nhiều. Trong suốt thời kỳ Bỏ Mả, bà con trong buôn làng kéo nhau đi viếng từng nhà để thưởng thức của ngon vật lạ. Mỗi khi nghe tiếng thanh la, trống, cồng vang lên ở ngoài nghĩa địa là báo hiệu lễ Bỏ Mả. Người trong buôn nối đuôi nhau, tay cầm đuốc cháy sáng rực tiến về nghĩa địa để chia vui cùng người thân thuộc. Mọi người không quên mang theo rượu, thịt để góp vui cùng gia đình gia chủ trong suốt cuộc lễ.
Tùy theo gia cảnh của từng người mà chủ lễ tổ chức đơn giản hay rườm rà. Gia chủ đứng trước ngôi mả có cắm cây nêu thường làm bằng cây gạo treo nhiều lá bùa xanh đỏ bay phấp phới theo chiều gió và đưa tay lên trời lâm râm khấn vái Yàng.
Tết của người Thái
Người Thái ở Sơn La và Lai Châu đón tết hầu như suốt cả mùa, gọi là mùa Tết. Ðầu tiên là tết Soong Sịp (tết cơm mới) sau khi lúa ở ngoài đồng đã chín vàng họ giết trâu, mổ lợn, lấy lúa mới đồ xôi nếp để cúng lễ. Mọi nhà đều tổ chức ăn uống vui vẻ. Sau tết Soong Síp là tết Kim Lao Mao (tết uống rượu), tết ông Táo và lớn nhất là tết Nen-Bươn-Tiền (tết Nguyên đán).
Vào ngày đầu năm, họ không quên đem dao, rựa vừa đi ra đường vừa phát quang để thông thoáng cho năm mới. Vui nhất là các hội Xoè Thái nổi tiếng, tha hồ vui chơi cho đến rằm tháng giêng mới mãn.
Tết của người Ê Ðê
Tết Cơm mới của người Rhadé hay Ê Đê ở Ðắk Lắk là vào khoảng tháng 10 dương lịch. Lúc ấy lúa đã chín vàng cả nương rẫy. Mỗi gia đình mang gùi đi tuốt lúa về phơi khô giã lấy gạo để tổ chức ăn mừng lúa chín. Tuỳ theo gia cảnh giầu hay nghèo mà các gia đình giết trâu, bò, heo, gà nhiều hay ít. Lễ vật đặt ở giữa nhà gồm một hay hai choé rượu cần buộc chặt vào gốc cột và vài đĩa cơm.
Gia chủ hay thầy cúng lầm rầm khấn vái: "Lạy thần Mtâo Kia, thần H'Bia Kiu, thần Aêdu, thần Alê Diê đã ban cho chúng con nào thóc lúa, nào kê, nào ngô. Chúng con thỉnh chư vị thần từ phía Ðông dãy Ngân Hà nơi gần nguồn gốc của lúa, xin giáng lâm chứng giám. Lạy thần Aê Nghi ở dưới đất, lạy thần Aê Ngăn ở trên trời... xin cho mỗi năm lúa được đầy vựa..."
Tết của người Chơ Ro
Người Chơ Ro và Chu Ru sinh sống tại Ðồng Nai, Lâm Ðồng và Bà Rịa - Vũng Tàu. Hai tết lớn của đồng bào Chơ Ro là lễ cúng thần rừng và lễ cúng thần lúa vào khoảng tháng ba âm lịch. Ngày cúng thần lúa cũng là lúc các cô gái trình cho buôn làng các loại bánh ngon như bánh tét, bánh ống, bánh dầy... Sau lễ cúng thần lúa tại nhà là bữa ăn tập thể do gia chủ đứng ra khoản đãi tại nơi hành lễ. Thường thường nơi cúng lễ là gốc cây cổ thụ trong buôn làng. Họ quan niệm thần lúa thường đến nghỉ ngơi ở đó.
Tết của người Cơ Ho
Người Cơ Ho hay sinh sống ở Lâm Ðồng. Họ ăn tết sau tết Nguyên Ðán của người Kinh ở miền xuôi độ một tháng, gọi là Nhô Lir Bông, tức tết mừng lúa về nhà. Tết này kéo dài cả tháng. Hai chữ Lir Bông có nghĩa là cót thóc. Người Cơ Ho rất quý trọng thóc lúa, vì thóc lúa là những hạt ngọc của Yàng ban phát. Lễ cúng mừng lúa được tổ chức tại kho lúa của mỗi gia đình, bắt đầu từ xế chiều với sự tham dự của chủ làng và nhiều gia chủ khác. Người ta lấy máu gà hiến sinh bôi lên vựa thóc, sàn kho, các cửa lớn, cửa sổ. Máu gà còn được trộn chung với vỏ cây đa, củ nghệ, các con mối đất. Cỏ tranh giã nhỏ để bôi lên ngực, lên trán những thành viên trong gia đình, sau đó còn bôi lên những đồ gia dụng.
Sau lễ cúng cót thóc trong gia đình, người Cơ Ho rủ nhau đi từ nhà này sang nhà nọ để ăn uống, ca hát, nhảy múa chung vui, cứ thế cho đến cả tháng trời mới mãn.
Tết của người Khơme
Lễ hội, diễn ra từ 10 đến 12/4, là dịp để ba dân tộc Kinh-Hoa-Khơme trên địa bàn tỉnh giao lưu, xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết dân tộc, đồng thời giữ gìn vốn giá trị văn hoá truyền thống.
Chương trình lễ hội bao gồm các trò chơi văn hóa thể thao mang đậm tính truyền thống của các dân tộc như thi trang phục 3 dân tộc, thi nấu các món ăn dân tộc, nấu cơm, thi làm lồng đèn, đèn gió, đèn nước, bắt vịt, kéo co, bóng đá, bóng chuyền, đua xe đạp chậm. Ngoài ra còn có màn đồng diễn võ thuật và thể dục của các đơn vị tham gia lễ hội.
Ngày 10/4, nhân dịp Tết cổ truyền Khơme, Ban dân tộc tỉnh cũng tổ chức họp mặt với hơn 200 đại biểu đại diện cho cán bộ, chiến sĩ, các vị sư trụ trì các chùa và người có công với cách mạng là người dân tộc Khơme trong tỉnh. 19 đại biểu có nhiều đóng góp cho sự nghiệp nâng cao đời sống dân trí của đồng bào dân tộc Khơme đã được trao Huy chương "Vì sự nghiệp công tác dân tộc".
Tết cổ truyền của người Tà Ôi
Trước đây, người Tà Ôi sống trên dãy Trường Sơn (huyện A Lưới, tỉnh Thừa Thiên-Huế) thường đón tết riêng theo nông lịch của họ. Họ ăn tết ngay sau vụ lúa, vào khoảng tháng 12, khi gạo Ra Dư đã đầy bồ.
Vài năm trở lại đây, tết cổ truyền của cộng đồng người Tà Ôi đã “góp gạo thổi cơm chung” với tết cổ truyền của người Kinh. “Ăn tết Acha Aza chỉ vui riêng trong dân tộc Tà Ôi, còn ăn tết chung với anh em người Kinh thì cái vui còn gấp bội” – già làng Quỳnh Hoàng (xã A Ngo) cho biết.
Dù vậy, người Tà Ôi vẫn giữ được nét đặc trưng ngày tết của dân tộc mình. Tết cổ truyền Acha Aza của người Tà Ôi chính là tết ăn cơm mới. Đây là ngày hội quan trọng bậc nhất vì nữ thần Lúa chính là mẹ Lúa, giúp dân bản có cái ăn, được mùa cũng nhờ thần mà mất mùa cũng do người quyết. Theo quan niệm của người Tà Ôi, thần Lúa là nữ thần nên người đàn bà trong gia đình đứng ra làm chủ lễ, thường đó là một nữ cao niên có uy tín với bản làng.