Năm 2013, bà NTT kiện ông THV đòi chia tài sản sau ly hôn. Xử sơ thẩm hồi tháng 7/2014, TAND quận Ninh Kiều bác yêu cầu của bà, đình chỉ vụ án và ghi nhận ông V. đồng ý hỗ trợ cho bà T. 30 triệu đồng. Sau đó bà T. kháng cáo yêu cầu chia tài sản. Ông V. cũng kháng cáo không đồng ý hỗ trợ bà T. 30 triệu đồng vì đó là thỏa thuận khi hòa giải, nếu bà rút đơn kiện thì ông mới hỗ trợ.
Tòa phúc thẩm cho rằng tài sản chung giữa bà NTT và ông THV đã được TAND TP Cần Thơ (cũ) công nhận thỏa thuận phân chia vào năm 1985 và án đã có hiệu lực. Sau đó, đến năm 2005 bà T. đã được cấp giấy đỏ với diện tích hơn 30 m2 trong khối tài sản chung này. Thời điểm này ông V. cũng được cấp giấy đỏ với diện tích hơn 130 m2 và hai bên không có tranh chấp, khiếu nại gì.
Sau đó, đến năm 2010, bà T. kiện đòi chia tài sản sau ly hôn thì TAND quận Ninh Kiều đã ra quyết định trả đơn do tranh chấp đã được giải quyết bằng quyết định có hiệu lực pháp luật của tòa. TAND TP sau đó cũng đã bác khiếu nại của bà, công nhận quyết định của TAND quận Ninh Kiều. Do đó, không có căn cứ để tòa thụ lý lại yêu cầu khởi kiện của bà T. nên đã tuyên như trên.
Theo hồ sơ, năm 1985, TAND TP Cần Thơ (cũ) ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn cho vợ chồng bà T. Trong đó, phần tài sản chung, tòa công nhận các nội dung thỏa thuận: Ông V. được sở hữu căn nhà lá, vài trăm mét vuông vườn; ông V. nhất trí đến mùa cây có trái bà T. được về hái bán; đất chung quanh nhà còn rộng, bà T. muốn cất nhà ở riêng thì về cất ở để gần các con.