Chuyện tình hoa dã quỳ
Chiều Tây Nguyên thật đẹp, cái nắng vàng óng ả chiếu vạt theo những sườn đồi trên cao nguyên càng khiến màu vàng như nắng mật của loài hoa dại thêm nổi bật. Điểm hấp dẫn nhất của dã quỳ đó là khi đến mùa nở rộ, chúng có thể bao phủ cả một vùng bằng màu vàng rực rỡ như một thảm lụa. Vào dịp này, rất nhiều khách du lịch, dân phượt, những đôi uyên ương ở khắp các nơi đổ về với mong muốn có được những bức ảnh tuyệt đẹp dưới cánh dã quỳ.
Vẻ đẹp của Hoa dã quỳ
Những ngày tháng lang thang khắp cao nguyên Lâm Viên, được trò chuyện với nhiều già làng người dân bản địa, tôi được biết liên quan đến loài hoa dã quỳ là một câu chuyện tình rất bi thương. Già Ma Jơn (SN 1938, ngụ xã Tu Tra, huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng) không giấu được nỗi xúc động khi kể lại, từ xa xưa, tại buôn nọ có chàng trai của núi rừng tên là K’Lang đem lòng yêu tha thiết nàng H’Limh của con suối. Ngày ngày K’Lang vào rừng săn bắt thú rừng còn H’Limh khéo léo dệt tấm chăn kiệu chồng (theo tục lệ của bộ tộc con gái trước khi lấy chồng phải dệt một tấm chăn thật đẹp để mang về nhà chồng-PV). Tối tối, hai người cùng quây quần đốt lửa và múa hát với dân làng trong buôn. Cuộc sống vui vẻ hạnh phúc của họ cứ thế trôi đi.
Một ngày kia, H’Limh chờ hoài đến tối mà vẫn không thấy bóng dáng K’Lang trở về. Ngày ngày mòn mỏi chờ mong trong tuyệt vọng, lo lắng đã có chuyện chẳng lành xảy ra, nàng quyết định rời buôn làng đi tìm người yêu. Nàng đi ngày đi đêm, băng qua biết bao con suối, biết bao ngọn núi nhưng bóng dáng người yêu vẫn biệt tăm. Tiết trời sang đông trên vùng cao nguyên càng khiến cho cảnh vật thêm lạnh lẽo, còn H’Limh thì hiu quạnh và cô đơn tuyệt vọng. Đói, rét, nàng không đủ sức chịu đựng với thời tiết khắc nghiệt nên đã ngủ thiếp đi, trong giấc mơ nàng thấy K’Lang xuất hiện ở phía sau một con suối trước mặt.
H’Limh giật mình tỉnh giấc, nàng choàng dậy chạy qua một con suối. Một cảnh tượng hãi hùng và vô cùng đau xót hiện ra trước mắt: K’Lang đang bị người bộ tộc Lasiêng trói chặt và chuẩn bị hành hình. Không kịp suy nghĩ cho bản thân, H’Limh lao mình đến ôm lấy người yêu mặc cho những mũi tên, những ngọn giáo đâm vào da thịt nàng. H’Limh bị trúng mũi tên độc của chàng LaRihn - con trai tộc trưởng Lasiêng. Do quá hờn ghen với tình yêu của H’Limh dành cho K’Lang, nên LaRihn đã buông lơi mũi tên hận tình. Anh ta cũng không ngờ người lãnh trọn mũi tên nghiệt ngã ấy lại là H’Limh - người con gái mà mình ngày đêm thầm thương trộm nhớ.
Từ đó, cứ độ tháng 10 hàng năm, nơi nàng H’Limh chết lại nở ra một loài hoa dại có màu vàng rực rỡ mà người cao nguyên thường gọi là hoa dã quỳ (nghĩa là chết trong rừng hoang). Sau này, gió đã giúp loài hoa dại này nở rộ trên khắp đất trời Tây Nguyên.
Những con đường hoa dã quỳ ở Tây Nguyên
Tác dụng diệu kỳ
Cây hoa dã quỳ có sức sống mãnh liệt không chỉ có ý nghĩa như tình yêu chung thủy, tỏ ý lòng kiêu hãnh không khuất phục trước cái ác, mà nó còn có khả năng chữa được rất nhiều bệnh về đường da. Đặc biệt ở Tây Nguyên, người đồng bào thường dùng nó để trị bệnh mẩn ngứa, mụn nhọt, ghẻ ở trẻ em.
Già Ma Jơn hé lộ: “Già vốn không phải là thầy thuốc nhưng già biết rõ về tác dụng của loài dã quỳ này. Loài hoa đã gắn với già bao kỷ niệm, ngay từ khi sinh ra già đã thấy loài hoa này rồi, gần như cuộc đời già lớn lên cùng với nó, từ những buổi lên rẫy lao động, đến những buổi đi học, chỗ nào cũng vàng rực sắc dã quỳ. Bao nhiêu năm nay, già vẫn thấy người dân làng mình dùng nó để trị mụn nhọt, mẩn ngứa. Bất cứ ai bị mẩn ngứa, mụn nhọt chỉ cần dùng dã quỳ là khỏi. Loài cây dại này mọc ở khắp các bụi cây ven đường, trên rẫy nên cũng dễ dàng tìm. Không phải dùng đến thuốc tây mà lại nhanh, tiện và không tốn đến một đồng”.
“Một người vùng xuôi khoảng gần 10 năm bị nổi những hạt nước ở tay, chân, nhất là ở kẽ tay và gan bàn chân, nhiều đêm không thể ngủ được, phải nấu nước nóng với muối ngâm thì mới đỡ được nhưng da tay và chân cứ dày lên. Năm 2010, người này trong một lần đi du lịch thấy già hái dã quỳ bèn hỏi chuyện, khi biết dã quỳ có khả năng trị nổi hột ngứa nên đã xin tôi bày cho cách chữa khỏi. Hai tuần sau, cô ấy điện lên cảm ơn tôi ríu rít, rồi còn gửi quà biếu tôi nữa”, già Ma Jơn tâm sự.
Bài thuốc này kỳ thực rất đơn giản, chỉ duy nhất một loại thuốc là cây dã quỳ. Phương pháp chữa bệnh cũng vô cùng dễ dàng, chỉ cần hái vài nắm ngọn và lá dã quỳ tươi, rửa sạch, cho vào thau cùng 1/2 muỗng canh muối hạt, nấu nước thật sôi đổ vào, để một lúc cho bớt nóng ngâm chỗ bị nổi hột ngứa, vừa ngâm vừa vò lá vào đó. Những đợt ngứa thì ngâm 2 lần/ngày, nếu đỡ thì ngâm 1 lần. Lần sau nếu còn bị nữa thì ngâm tiếp sẽ dứt hẳn. Nếu trẻ bị ngứa thì tắm luôn cho trẻ, chỉ cần tắm liên tiếp từ 3-7 ngày thì bệnh sẽ thuyên giảm và khỏi hẳn. Hơn hết là loại nước lá dã quỳ hoàn toàn không độc hại, không có tác dụng gì tới sức khỏe của người sử dụng.
Theo tìm hiểu, không chỉ được sử dụng ở Việt Nam mà ở trên các nước khác, dã quỳ đã được sử dụng với những tác dụng khác nhau. Tại Nhật Bản, vào cuối thời kỳ Minh Trị, loài cây này được nhập khẩu như là cây cảnh mặc dù nó đã từng được trồng tại đây. Với vị đắng đặc trưng, nó được sử dụng để chống lại ngộ độc, mặc dù không được sử dụng cho các mục đích y học trực tiếp. Người ta cho rằng loài này được Nitobe Inazo đưa vào Nhật Bản, vì thế mà có tên gọi trong tiếng Nhật là cúc Nitobe (Nitobegiku). Ở Mexico, dã quỳ được sử dụng để chữa bong gân, gãy xương, các vết thâm tím và các vết bầm dập. Còn ở Trung Quốc, nó được sử dụng để chữa trị một số bệnh đường da (như bệnh nấm bàn chân), ra mồ hôi trộm ban đêm và là vị thuốc của toa thuốc lợi tiểu, nhuận gan, chữa bệnh vàng da và viêm bàng quang. Hơn thế nữa, dã quỳ được bán tại thị trường thuốc thảo mộc ở Đài Loan như một loại trà để cải thiện chức năng gan.
Còn tại Việt Nam, dã quỳ được người Pháp đưa vào các đồn điền ở Lâm Đồng. Nó được trồng khi đó để làm phân xanh cho các vườn cà phê, cao su. Thân dã quỳ chứa nhiều chất P, Ca, Mg nên làm phân hữu cơ khá tốt. Nhờ hạt dễ phát tán, cây dễ trồng nhờ giâm cành nên loài cây rất dễ sống. Tên dã quỳ xuất hiện trên văn chương từ thập niên 1970, trước đó người ta gọi nó là sơn quỳ. Đặc biệt, dã quỳ đã được sử dụng làm biểu tượng chính cho lễ hội hoa Đà Lạt năm 2005.
Một phát hiện thú vị, mang tính chất sinh học thân thiện với môi trường rất hữu ích của nhóm tác giả gồm 3 học sinh lớp 11 chuyên Toán (Trường THPT chuyên Thăng Long, Đà Lạt) đã thí nghiệm thành công với sáng kiến “tác dụng của cây dã quỳ trong phòng trừ sâu hại”. Khi thí nghiệm trên 2 chậu cây sen cạn, nhóm tác giả này đã thả 10 con sâu tơ từ 2-3 ngày tuổi trên mỗi chậu. Sau đó tiến hành phun dung dịch chiết xuất dã quỳ nguyên chất trực tiếp lên thân sâu tơ và phun vào lá sen. Theo dõi 1 giờ đồng hồ thì sâu không di chuyển được, khoảng 20 phút sau thì số sâu chết hết. Với sáng kiến này của nhóm tác giả đã đặt ra vấn đề cần hạn chế sử dụng thuốc trừ sâu hóa học, tăng cường sử dụng thuốc trừ sâu sinh học để cân bằng bền vững môi trường sinh thái, bảo vệ sức khỏe cho người sản xuất, tăng độ an toàn của sản phẩm trên cây trồng vàngười sử dụng.
Ngậm ngùi chia tay thành phố hoa xinh đẹp, khách lại lên đường xuôi theo những con dốc dài hun hút, với bóng núi, cây rừng để đến những vùng đất mới. Dù biết đến nhiều loài hoa, song loài hoa dại mang tên dã quỳ sẽ còn lưu mãi trong tâm thức của khách, cũng vì nó gắn liền với câu chuyện tình bi thương, ai oán nên ít khi những đôi tình nhân hái dã quỳ tặng nhau.
BOX: Dã quỳ còn gọi cúc quỳ, sơn quỳ, quỳ dại, hướng dương dại, hướng dương Mexico, cúc Nitobe (danh pháp hai phần: Tithonia diversifolia) làmột loài thực vật trong họ Cúc (Asteraceae). Nó được phân bổ rộng khắp trong các khu vực cận nhiệt đới và nhiệt đới như Trung Mỹ, Đông Nam Á và châu Phi. Phụ thuộc vào khu vực, nó có thể là cây một năm hay cây lâu năm, dạng cây bụi cao tới 2-3 m với thân cây mọc thẳng và đôi khi hóa gỗ. Hoa màu vàng đến vàng cam. Ở Việt Nam, dã quỳ thường ra hoa nhiều nhất vào mùa đông, vàng rực cả triền đồi và thảo nguyên ở Đà Lạt, Pleiku...