Cảnh báo bệnh sốt mò tái xuất

Sốt mò nhiều năm không xuất hiện nên cả cán bộ y tế cũng đã quên bệnh này, thậm chí nếu chẩn đoán đúng cũng không có thuốc điều trị.

Từ tháng 4 đến nay đã có gần 80 bệnh nhân sốt mò tại Yên Bái. Phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Văn Châu (Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương) cho biết, bệnh sốt mò đang xảy ra trên địa bàn tỉnh Yên Bái với diện khá rộng và số bệnh nhân tăng. 

Tính từ đầu tháng 4/2014 đến hết tháng 9, có 78 bệnh nhân sốt mò đến điều trị tại bệnh viện huyện và thị xã. Theo báo cáo của Trung tâm Y tế Dự phòng tỉnh Yên Bái, bệnh nhân sốt mò tập trung nhiều nhất ở huyện Văn Chấn (54%), thị trấn Nghĩa Lộ (21%), huyện Trạm Tấu (15%) và huyện Mù Cang Chải (10%). Bệnh nhân chủ yếu gặp ở dân tộc H’Mông và dân tộc Dao, sống nơi rẻo cao, tuổi từ 1 đến 52, và phụ nữ mắc nhiều hơn nam.

Điều đáng quan tâm là hiện nay các loại thuốc kháng sinh điều trị sốt mò đặc hiệu như Tetracyclin, Doxycyclin… không có trong danh sách cơ số thuốc cho bệnh nhân bảo hiểm y tế ở tuyến y tế xã. 

"Những địa phương nhiều năm không có bệnh sốt mò nên người dân và cán bộ y tế cơ sở đã lãng quên bệnh này. Do đó những người bị sốt đến trạm xá, cán bộ y tế xã không nghĩ đến bệnh sốt mò và nếu nghi là bị sốt mò cũng không có thuốc điều trị. Vì vậy trạm y tế xã phải gửi lên tuyến trên, khi lên bệnh viện tuyến trên bệnh đã nặng, đe dọa đến tính mạng", tiến sĩ Châu lo lắng. 

Bệnh sốt mò Scrub typhus (hay sốt bụi rậm, sốt triền sông Nhật Bản, sốt Rickettsia) là một bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm C. Tác nhân gây bệnh tồn tại ngoài thiên nhiên, do ấu trùng mò (Trombiculidae) truyền ngẫu nhiên sang người qua vết đốt của chúng. Bệnh lưu hành chủ yếu ở khu vực châu Á và Tây Thái Bình Dương. 

Mò thường sống ở các bụi cây, bụi cỏ ẩm, phía trên là các vòm cây cao hoặc trong các hang đá có các loài gậm nhấm sống. Nó vừa là vật chủ, vừa là trung gian truyền bệnh. Quá trình nhiễm trùng được duy trì trong tự nhiên giữa mò và các loài gặm nhấm (chủ yếu là chuột, thỏ, lợn và các loài chim, hoặc gia súc)... 
Ở Việt Nam sốt mò được phát hiện tại Sài Gòn vào năm 1915. Từ đó đến nay, bệnh tiếp tục xảy ra ở vùng trung du và rừng núi của Việt Nam. Đặc biệt sau năm 1990, bệnh sốt mò có xu hướng quay trở lại và mở rộng vùng phân bố. 

Thời gian ủ bệnh kéo dài từ 6-21 ngày. Thời kỳ toàn phát thường gặp sốt, vết loét ngoài da, phát ban, sưng hạch, tổn thương ở các cơ quan và phủ tạng... 
Ngoài ra, các vết loét xuất hiện khắp cơ thể như bộ phận sinh dục, nách, bẹn rồi đến hậu môn, háng, thắt lưng sau mới tới chân tay, lưng, ngực, bụng, cổ. 
Đôi khi vết loét ở vị trí khá bất ngờ như vành tai, rốn, mi mắt. Bệnh nhân sốt mò có thể diễn biến nặng ngay từ tuần đầu và thường tử vong do suy đa phủ tạng. Tỷ lệ tử vong của sốt mò trong giai đoạn trước kháng sinh có thể lên tới 50-60%. 

Trong những trường hợp không được điều trị kháng sinh đặc hiệu và không tử vong, bệnh nhân thường hết sốt sau 10-14 ngày; những bệnh nhân nặng có thể có sốt kéo dài 21 ngày hoặc lâu hơn. 

Tuy nhiên, một số biểu hiện như rối loạn tuần hoàn, giảm thính lực, có thể tồn tại kéo dài nhiều tuần đến nhiều tháng sau đó. Sốt mò ở phụ nữ có thai có thể gây biến chứng về thai sản như sảy thai, thai chết lưu hoặc cân nặng khi sinh thấp.