Bình quân mỗi năm, dân số Việt Nam tăng khoảng 90 vạn người, mặc dù đã đạt được mức giảm sinh là 2,03 con / người mẹ trong độ tuổi sinh sản. Riêng tại thành phố Hồ Chí Minh có qui mô dân số khá lớn, năm 2010, có hơn 7,3 triệu người. Tốc độ tăng dân số bình quân năm khá cao 3,5 %, trong đó 2,1% là tăng cơ học. Người trong độ tuổi sinh đẻ chiếm khoảng 66% dân số. Trẻ sinh ra mỗi năm khoảng 70.000 trẻ. Tỷ số giới tính khi sinh là 108 bé trai / 100 bé gái.
Nguyên nhân của tình trạng trên do người dân còn nặng tâm lý muốn có con trai để nối dõi tông đường và thờ cúng sau này. Do áp lực sinh, mỗi cặp vợ chồng chỉ có 1-2 con, nhưng các cặp vợ chồng mong muốn trong số đó nhất thiết phải có con trai, vì vậy đã tìm các dịch vụ y tế, xã hội để lựa chọn giới tính khi sinh. Do tính chất công việc phải đòi hỏi lao động cơ bắp của con trai, trụ cột về lao động; d chế độ an sinh chưa đảm bảo, nên người già vẫn trông cậy vào sự nuôi dưỡng của con cái, mà phong tục chung của người Á Ðông là ở với con trai. Do chính sách đối với nữ giới chưa thỏa đáng, bình đẳng giới có mặt chưa được quan tâm đầy đủ. Nguyên nhân trực tiếp là lạm dụng tiến bộ khoa học công nghệ trong y học để lựa chọn giới tính thai nhi và phá thai vì lý do lựa chọn giới tính thai nhi.